Phần 1: Phân tách các Quẻ Dịch:
Đầu Năm mới Bính Thân – Sơn Hạ Hỏa
1/Xin tiếp tục bàn về quẻ Hỏa Thủy Vị Tế (với tâm thành, người viết gieo được) trước ngày ĐH12 đảng csvn khai diễn vào cuối năm 2015.
Quẻ cho Kết Quả: CHƯA XONG.
Chưa xong điều gì? cái gì?
-Đảng chưa thể bàn giao VN như một thuộc địa -tỉnh lỵ của đồng chí Tàu /CS phương Bắc?
( vì Khảm đã được Tổ tiên Cổ Việt Dịch hóa là Nước Tàu; Và nội quái Khảm của quẻ Vị Tế lại là thế Địa = VN trong quẻ Hỏa Thủy Vị Tế).
-Hay…Đất Nước VN dưới chế độ CS chưa phát triền đủ đến nỗi Truyền thông Quốc tế đã công khai đánh giá “VN là một quốc gia không chịu phát triển”?
2/Vì Đảng csvn không muốn thay đổi. Và một Đất nước muốn phát triển thì phải canh tân – đổi mớitừ tình trạng xã hội song song với các cơ chế điều hành của guồng máy cai trị. Điều này được xác minh qua tuyên bố của vị Tổng Bí thư Đảng, vừa tái nhiệm…”đại hội nhằm duy trì Kỷ Cương của Đảng (tức không thay đổi cơ chế, đường lối CSCN của Đảng)…và không để cảnh”trên bảo dưới không nghe” tái diễn trong guồng máy điều hành…(tức cho thay thế một số nhân sự lãnh đạo trong chế độ độc trị).
Như thế – quái ngoại của quẻ Vị Tế, biểu thị “lớp lãnh đạo cao cấp cùng đường lối, chính sách đối nội đối ngoại của quốc gia không bị chuyển biến dây chuyền khi Hào 1(nội quái) chỉ động để hình thành ĐH đảng; và Hào 2 vẫn tiếp tục thể Dương (thay vì thể Âm tức không Chính) để chuyển biến lên các hào bên trên. Hào 2 theo Lý của Dịch là Thế và hào 5 là Ửng – cả hai vẫn giữ thể âm – dương không đúng vị: tức guồng máy cai trị trên-dưới của Đảng csvn tiếp tục không Chính Danh – nôm na là tiếm quyền đại diện người Dân và Quốc gia VN.
3/Từ hệ luận trên mà quẻ Vị tế chiêm được đã cho kết quả Chưa Xong và quẻ biến chỉ qua Hào 1 động đã xuất hiện quẻ Hỏa Trạch KHUÊ.
Đây là quẻ xấu nhất trong Kinh Dịch. Khuê nghĩa là Chống đối – Chia lìa.
a)-Nội quái Khảm chuyển thành Đoài (hay Đoái nghĩa là Vui Vẻ = ĐH không bị ngăn trở thì vui chứ còn gì!). Và ngoại quái Li -âm sáng sủa nên Thế (hào 2- dương) và Ứng -dương thuận hảo.
Và Thoán từ nêu : việc nhỏ cá nhân họa may được tốt”.
b)–Sao lại chỉ cá nhân được lợi?
– Vì Hào 2 là nội lực, nội chính quốc gia mà lại Dương không đúng Vị – không đại diện cho các tầng lớp quần chúng mà chỉ là guồng máy cứng ngắc của Đảng. Tượng truyện quẻ này ví như “thời của loạn chúng ” làm những việc trái với Thiên Ý. Người thiện tâm nên tách riêng, dù bị chê bai..Đây là nhân cách của người quân tử “thuận nhân tình thì ĐỒNG”. Gặp thời loạn dù bị gian khổ vẫn không hùa theo nên gọi là DỊ.
c)-Xét Hào 5 ngoại quái Hỏa sáng sủa, nhưng là hào Âm nên (Lãnh đạo, Nhóm nòng cốt của Đảng) có ý kiêng nể Hào 2 dương tức quần chúng độc lập (Trung mà không Chính-thuộc chính quyền). Do đó quần chúng muốn gặp “ngôi cao”phải dùng “đường tắt”. Nhận định của Cụ Phan Bội Châu: không xấu, mà chỉ là “quyền biến” (thời nay là thương thảo (compromised) 5/5 hai bên cùng có lợi chăng?).
d)–Sau cùng vào thời nghi kỵ không tin ai ở dưới, lãnh đạo cấp cao của Đảng tự trở nên cô độc.
Hào 6 Dương đã có lúc hoảng (sợ) “mà giương cung muốn bắn nhưng nhờ chút minh mẫn (vì ở trên cùng ngoại quái Li) nên đã buông cung xuống mà xin lỗi”.
Thoán Truyện của quẻ ghi:
Hai bên hòa hợp vui vẻ như “sau nắng hạn gặp mưa rào”. MÀ cùng giúp nhau – cứu đời.
Vậy trong họa vẫn có mầm phúc. (Phải chăng là Phúc của Dân Tộc Đất Nước Việt Nam?)
Phần II: Khi “lãnh đạo Đảng” được đả thông… thì sự chuyển biến sẽ thể hiện tiếp tục Hào 2 động, tiến lên biến các Hào 3,4,5 và 6 của quẻ Khuê:
A / ta được Quẻ Biến Thủy Thiên NHU.
Nhu là CHỜ ĐỢI.
Quẻ gợi cách Xử Thế khi chờ đợi. Tùy họa ở gần hay xa, cốt nhất đừng nóng nẩy mà phải giữ đức Trung lo cho lợi ích, an nguy của đại đa số quần chúng) – cho (Toàn Dân, Đất Nước là Chính).
Đại tượng Truyện: “Dưới là Càn (trời); trên là Khảm (mây)…tượng mây tụ bao kín bầu trời – thế nào cũng mưa”.
Quẻ có hai hệ quả nổi bật:
-Hào 3 thể dương cương ở dưới và sát quẻ Khảm (đồng chí Tàu chăng?) lại không đắc Trung nên có tượng (biểu lộ) táo bạo, nóng nẩy, làm càn như tự mời giặc đến, tự gây tai họa. Nếu biết thận trọng thì chưa sao vì tai họa vẫn ở ngoại quái.
-Hào 6 (trên cùng) thể âm là tối hiểm. Nhưng có ba Hào Dương (1,2,3 – nội quái) được ví như ba người khách, không tới ngay được (vì ở xa Hào 6) nhưng thủng thẳng sẽ tới.
Cuối cùng sẽ được cứu khỏi chỗ hiểm mà được tốt lành.
B/ Trở lại phân tích thuyết Tam Tài – Lý của Dịch và cũng là Triết lý của tiền nhân Cổ Việt:
1/ * (Thiên) Thời – CÓ. Ngoại quái quẻ Vị Tế là Hỏa – sáng sũa, chuyển sang Thủy /quẻ Thủy Thiên Nhu; quái Thủy có Hào dương ở giữa : Dương là Thật – Thành tín.
* (Địa) Lợi – từ không trở thành CÓ khi nội quái Trạch /quẻ Khuê chuyển thành Càn của quẻ biến Thủy Thiên Nhu.
* (Nhân) HÒA chỉ CÓ khi Hào 2/nội quái Càn ĐỘNG (mà không biến) biểu thị các tầng lớp quần chúng (nhân sĩ tinh hoa, các hội đoàn độc lập với Nhà Nước động viên thúc đẩy người Dân tham gia trực tiếp vào chính sự đối Nội và đối Ngoại).
2/ – Xin xem lại Phần I:tiểu mục d) bàn về tính nghi ngờ – cô độc của Hào 6 dương/ quẻ Khuê.
– Và Hào 6 âm /quẻ Nhu đề cập tới 03 Hào Dương (tức Nội quái Càn) của toàn quẻ Biến Thủy Thiên NHU – mục hệ quả.
KẾT:
a)*Mây đầy trời (Khảm – Thủy). Tượng Đất là Càn, dương cương; nếu nhu thuận (tức Hào 2 động) thành Quái Li (vạch giữa đưt = âm) thì lại là biểu tượng của tiền nhân trong Lá Cờ Quốc Gia (thời vua Duy Tân kháng Pháp, thời chính phủ Trần Trọng Kim, sau thành Càn, thời Bảo Đại rồi Đệ I và Đệ II VNCH ).
b)*Dương khí từ Đẩt / Càn bốc lên cao, giao tiếp khí âm của bầu mây tụ hợp..sẽ tạo mưa rào với nhiều sấm – chớp lóe sáng bầu trời. Hõa của sấm chớp (Thiên Thượng Hỏa) không được tạo sinh từ Mộc mà là hệ quả của Điện từ Dương dưới đất bốc lên chập hợp với Điện từ Âm, mây tụ trên trời. Sẽ có những lằn sét búa xuống đất gây hỏa hoạn tác hại trên mặt đất. Đây là tính Thể của lửa. Nhưng về tính Dụng của Hỏa thì lại mang tính tích cực: Kích thích các hạt giống dưới Đất nẩy mầm thành cây để rồi các búp non lộc nhú tiếp tục trên các cành, nhánh cây ..trổ hoa, kết quả !
c)Sấm Trạng lưu lại từ trên 500 năm trước:
“Cửu cửu dĩ định
Mã đề Dương cước…tận
Thân Dậu niên lai…kiến
Thái Bình .”
*-Năm Bính Thân 2016 thể Sơn Hạ Hỏa và tiếp Đinh Dậu cũng vậy. Ta có hai năm “khởi đầu” cho tác động xuất hiện Biến Cố Lớn (2+0+1+6=9) cho Lịch Sử Việt Nam. Số 09 là số thành – hoàn tất hoàn hảo của Âm 4 và 5 Dương kết hợp.
*-Con Cháu Hồng Lạc trong và ngoài Nước luôn hằng tâm về Vận Nước :
Đất Nước và Dân tộc Việt Nam tồn tại – trường tồn và phát triển sánh vai với Năm Châu.
Trân trọng.
(Trần Sơn – đầu Xuân Bính Thân 2016)
Tham khảo:
*Nguyễn Hiến Lê “Kinh Dịch – Đạo của người quân tử”-XBVH 1992.
*Quẻ Dịch : Hỏa Thủy Vị Tế trươc khi ĐH12 Đảng csvn khai diễn vào cuối Năm 2015
https://bagan3.me/2016/01/19/que-dich-thuy-hoa-vi-te/
*”Mã đề Dương cước anh hùng tận…”
https://bagan3.me/2014/01/11/ma-de-duong-cuoc-anh-hung-tan-than-dau-nien-lai-kien-thai-binh/
Pingback: Quẻ Dịch H.T Vị Tế và các quẻ biến Hỏa Trạch KHUÊ, Thủy Thiên NHU. | Bagan3's Blog
Pingback: “Bao giờ đá nổi – lông chìm …” Sấm Trạng Trình . | Bagan3's Blog