(PHẦN MỘT) –1./ Dẫn nhập.
Tựa đề của bài tiểu luận này lấy từ loạt bài “Trăm Việt trên vùng định mệnh”(TVTVĐM) của học giả Phạm Việt Châu (PVC). Loạt bài TVTVĐM xuất hiện lần đầu trên tạp chí Bách Khoa từ năm 1969 đến năm 1974. [1] Viết trong thời kỳ sôi động nhất của cuộc chiến Việt Nam, tư tưởng của học giả PVC là một viễn kiến chính trị vượt không gian và thời gian. Những biến chuyển kinh tế, chính trị gần đây trên trường quốc tế, nhất là các tranh chấp tại biển Đông, lại càng làm tăng giá trị cảnh cáo của viễn kiến đó.
Các ý chính trong sách TVTVĐM có thể tóm lược như sau. Thứ nhất, các quốc gia Đông Nam Á (ĐNÁ) có chung nguồn gốc Bách Việt. Nói rõ hơn, tổ tiên dân ĐNÁ ngày nay là bộ tộc Bách Việt, đã nam thiên xuống Việt Nam, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân, Căm Bốt, Miến Điện, Thái Lan, Lào, v.v…, theo nhiều đợt khác nhau trong quá khứ. Thứ hai, các hậu duệ của bộ tộc Bách Việt đã đi tới đoạn đường chót của cuộc hành trình lịch sử, không còn nơi nào, chỗ nào để mà thiên di xa hơn nữa, trong khi áp lực truyền kiếp từ phương Bắc vẫn tiếp tục đè nặng xuống. Thứ ba, các quốc gia ĐNÁ chỉ có thể xây dựng được một thế đứng độc lập bằng cách triệt tiêu các ý hướng dựa vào các đế quốc mới. Các nước ĐNÁ cần quần tụ trong bình đẳng, hỗ tương, vừa giữ được thế tự lập đơn vị, vừa tạo ra sức mạnh tập thể. [2]
Đọc kỹ hơn, TVTVĐM có rất nhiều dữ kiện cập nhật (vào thời điểm đó) và tài liệu quý báu cho ngành Việt học, đặc biệt là Việt cổ học. Với tinh thần khoa học, khách quan, với lối suy nghĩ tiến bộ và với niềm tự hào dân tộc, học giả PVC đã đánh giá đúng đắn những thành quả văn minh Bách Việt nói chung, và Lạc Việt nói riêng. Ông viết:
“Cho nên, những người viết sử hôm nay, nếu thành thật với mình với người tất không thể nào phủ nhận được công trình xây dựng nền văn minh chói lọi và cổ nhất Đông-Nam-Á của bộ tộc Lạc-Việt.” [3]
Mấy năm gần đây, ngành Việt cổ học đã trở nên khá phát triển trong cộng đồng người Việt tại hải ngoại. Ngoài các tạp chí chuyên đề như Tư Tưởng, một số bài nghiên cứu khá nghiêm túc đã bắt đầu xuất hiện khá thường xuyên trên rất nhiều tạp chí tiếng Việt nước ngoài (thí dụ như Diễn Đàn, Hợp Lưu, KhoaHoc&ĐoiSong, talawas, Thế Kỷ 21, Thời Đại Mới, v.v…). Các công trình biên khảo gần đây, tiêu biểu nhất là Tìm về nguồn gốc văn minh Việt Nam, [4] đều góp phần, không ít thì nhiều, trong việc phát huy ý kiến trên.
Mùng 5 tháng 5 năm 2005 vừa qua là ngày giỗ 30 năm của học giả PVC. Đây là một dịp tốt để chúng ta cùng nhìn lại, đánh giá và triển khai tư tưởng TVTVĐM. Với khả năng và hiểu biết hạn hẹp của mình, người viết xin giới hạn trong đề tài Bách Việt và Hiệp hội các quốc gia ĐNÁ (ASEAN), tức là một góc cạnh lớn (nhưng không phải là góc cạnh duy nhất) của TVTVĐM. Vì nội dung bài viết ra ngoài phạm vi nghiên cứu chuyên môn của mình, người viết sẽ không tránh khỏi ít nhiều sai lạc và thiếu sót. Vì thế, kính xin bạn đọc bốn phương vui lòng lượng thứ và bổ túc, để chúng ta cùng nhau góp ý cho đề tài quan trọng này.
Bố cục của các phần còn lại trong bài như sau. Phần 2 phác họa vài nét đại cương về lịch sử bộ tộc Bách Việt. Phần 3 thảo luận nguồn gốc và văn minh Bách Việt dựa trên các khám phá khoa học hiện đại. Phần này cho thấy Việt tộc đã có những đóng góp rất đáng kể vào văn minh nhân loại. Phần 4 bàn về sự tương quan giữa Việt tộc và Hán tộc. Thái độ chủ quan, mập mờ, che dấu sự thật của người Hán đã góp phần không nhỏ vào niềm tự ti dân tộc của nhiều người Việt ngày nay. Phần 5 phân tích ASEAN như một ý chí và hình thức nối kết của Bách Việt trong thế kỷ 20-21, đúng như ý nguyện của học giả PVC lúc sinh thời.
2./ Vài nét về lịch sử Bách Việt:
Bách Việt là tiếng của người Hán dùng để chỉ tập hợp các sắc dân chủng Việt (phần lớn cư ngụ tại miền nam sông Dương Tử) mà người Hoa Hán gặp gỡ và tranh đấu khi họ bành trướng từ Hoa Bắc xuống Hoa Nam. Lãnh thổ của bộ tộc Bách Việt, theo huyền sử, là nước Xích Quỷ [5] dưới quyền vua Kinh Dương, bắc giáp Hồ Nam, nam giáp Chiêm Thành, tây giáp Tứ Xuyên, đông giáp biển Đông. Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc khoảng thế kỷ thứ ba trước Tây Lịch (TTL), sử sách ghi nhận các nước Hồ Việt (ở Hồ Nam), U Việt (ở Triết Giang), Mân Việt (ở Phúc Kiến), Đông Việt (ở Giang Tây), Nam Việt (ở Quảng Đông), Âu Việt (ở Quý Châu & Quảng Tây), Điền Việt (ở Vân Nam), Lạc Việt (bắc Việt Nam), Chiêm Việt (đảo Hải Nam), v.v… [6] Các nước này nằm kế tiếp nhau từ miền nam sông Dương Tử, qua lưu vực sông Hồng, xuống tận bình nguyên sông Mã. Đó là chưa kể những tổ hợp người Việt sống rải rác miền tây nam Trung Quốc chưa tổ chức thành quốc gia, có khi còn gọi là dân Bách Bộc. [7] Nhưng cũng có nhà nghiên cứu lại cho rằng Bách Bộc hay Bộc Việt là tiếng người Hoa Hán dùng để chỉ chủng tộc Việt ở phía bắc sông Dương Tử. [8]
Sau khi nhà Tần thống nhất được miền bắc Trung Quốc và một số lãnh thổ miền nam sông Dương Tử, các nước Việt nhỏ dần dần bị suy sụp, chỉ có Mân Việt, Đông Việt và Nam Việt nhà Triệu (bao gồm Nam Việt, Âu Việt, Lạc Việt ) là còn tự trị. [9] Sang đến thế kỷ thứ nhất TTL, các nước này cũng bị nhà Hán thôn tính nốt, tuy rằng các tổ hợp Bách Việt vẫn sống rải rác khắp miền nam Trung Quốc. Trải qua thăng trầm của hai ngàn năm lịch sử, phần lớn lãnh thổ Bách Việt đã bị sát nhập vào bản đồ Trung Quốc và rất nhiều văn minh Bách Việt dần dần bị đồng hóa vào văn minh Trung Quốc.
Đến đây, người viết xin nhấn mạnh ba điểm.
–Thứ nhất, trong TVTVĐM, học giả PVC có vẻ hàm ý lãnh thổ sinh hoạt của bộ tộc Bách Việt giới hạn vào miền nam sông Dương Tử. Thật ra, các công trình nghiên cứu khảo cổ và nhân chủng học gần đây cho thấy người Bách Việt đã vượt sông Dương Tử rất lâu trước khi văn minh Trung Quốc bắt đầu thành hình. [10] Gần hơn nữa, trong thời Xuân Thu Chiến Quốc, người Bách Việt sống rải rác trong các vùng Hoa Bắc, điển hình là nước Sở (ban đầu, gồm Hồ Bắc ngày nay), nước Tề (Sơn Đông), nước Tấn (Sơn Tây-Hà Bắc), v.v… [11]
– Thứ hai, vì chỉ có nước Việt Nam vẫn còn dùng chữ Việt trong quốc hiệu, có người ngộ nhận cho rằng người Bách Việt đã bị đồng hóa vào văn minh Trung Quốc, ngoại trừ người Việt Nam. Thật ra, như học giả PVC đã nhấn mạnh ngay từ đầu, tất cả các quốc gia ĐNÁ như Miến Điện, Thái Lan, Lào, Việt Nam, Căm Bốt, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân, v.v…, đều do hậu duệ của đại chủng Bách Việt thành lập tại những thời điểm khác nhau. Theo học giả, Thái Lan có thể xem là một nước có nguồn gốc gần gũi với Việt Nam hơn cả. [12] Người Thái chính là bộ tộc Lý thuộc nhóm Âu Việt ở Quảng Tây trong nước Nam Việt nhà Triệu cũ. Sau khi Nam Việt nhà Triệu bị nhà Hán thôn tính, người Thái bỏ nước di cư, lập ra nước Nam Chiếu (Đại Lý). Đến thế kỷ 13, Đại Lý bị quân Mông Cổ phá vỡ hoàn toàn. Chính trong dịp này, người Thái lại nam thiên và hội tụ với các sắc dân Thái địa phương, sáng lập ra các vương quốc hùng mạnh, tiền thân của nước Thái Lan và Lào ngày nay. Điểm đáng chú ý là người Đại Lý đã đóng góp xương máu vào cuộc khởi nghĩa chống Hán của Hai Bà Trưng, cũng như đã hai lần chiếm lại thủ phủ Đại La (Hà Nội) từ nhà Đường vào thế kỷ thứ 9.
-Thứ ba, học giả PVC cũng không quên nhắc đến hai vương quốc cổ, Chiêm Thành và Phù Nam. [13] Theo học giả, người Chàm đã trở về với khối gia đình Lạc Việt, [14] còn người Phù Nam đã hòa vào tộc Mon-Khmer. Tuy ngày nay Chiêm Thành và Phù Nam không còn chỗ đứng riêng trong tập thể ĐNÁ, hai nước này đã đóng vai trò rất quan trọng trong thời kỳ đầu Tây lịch. Chiêm Thành và Phù Nam từng là gạch nối giữa tổ hợp đã suy sụp (Nam Việt nhà Triệu) và các tổ hợp đang hình thành ở lục địa cũng như hải đảo, cho dòng giống Bách Việt còn mãi mãi nối tiếp.
3./ Nguồn gốc và văn minh Bách Việt:
Các học giả ngày nay vẫn chưa hoàn toàn nhất trí về cội nguồn bộ tộc Bách Việt, nhất là vấn đề “nam thiên” hay “bắc tiến”. Các giả thuyết nam thiên phần lớn dựa trên cổ sử, nhất là cổ sử Trung Quốc. Như phần 4 sẽ trình bày, cổ sử Trung Quốc về Bách Việt chỉ có thể tin được phần nào. Các giả thuyết sau này, dựa trên các chứng cớ nghiên cứu đa ngành, có xu hướng làm đảo lộn các giả thuyết cũ, và do đó chưa được tất cả các nhà khoa học hoàn toàn chấp nhận. Các nghiên cứu di truyền học gần đây, tuy chưa minh xác hoàn toàn nguồn gốc người Bách Việt, nhưng đã làm sáng tỏ phần nào liên hệ giữa người Bách Việt và người Hoa Bắc.
Theo TVTVĐM, cuộc nam thiên của người Bách Việt có thể tạm chia làm bốn thời kỳ: [15]
–Đợt 1: vào giữa thiên niên kỷ thứ ba đến cuối thiên niên kỷ thứ hai TTL và bao gồm các sắc dân cựu Malay, tân Malay và Lạc Việt. Đợt nam thiên này lập ra các nước Việt Nam, Mã Lai, Nam Dương và Phi Luật Tân.
-Đợt 2: vào đầu thiên niên kỷ thứ nhất đến giữa thế kỷ thứ ba TTL và bao gồm các nhóm Mon và Khmer. Đợt nam thiên này lập ra các vương quốc Draravati và Chân Lạp, và cuối cùng là Căm Bốt ngày nay.
-Đợt 3: vào cuối thế kỷ thứ ba đến cuối thế kỷ thứ bảy và bao gồm bộ tộc Miến (trong đó có dân Pyu). Đợt nam thiên này cuối cùng lập ra Miến Điện.
-Đợt 4: đợt di cư ào ạt của người Thái vào thế kỷ thứ 13 và các đợt nhỏ kế sau, như đã bàn bên trên. Các đợt nam thiên này sau cùng lập thành Thái Lan và Lào.
*Gần đây, nhà nghiên cứu Nguyên Nguyên chỉ đích danh nước Sở là cái nôi nước Thái Lan và Viêt Nam ngày nay. [16] Theo ông, chủng Âu (người Thái cổ) chính là thành phần cư dân chủ lực của nước Sở vào thời Xuân Thu Chiến Quốc. Vì lý do thiên tai mất mùa và chiến tranh loạn lạc, cư dân nước Sở đã di tản hàng khối xuống phương nam, đến tận bình nguyên sông Hồng, từ thế kỷ thứ tám đến thế kỷ thứ ba TTL. Như vậy, truyền thuyết Âu Cơ–Lạc Long Quân có thể giải mã là sự cố gắng hợp chủng không thành công của hai chủng Âu và Lạc (người Việt cổ) trước áp lực bành trướng của người Hoa Bắc.
*Ngẫm cho cùng, hai thuyết nói trên chỉ là sự triển khai và làm tinh tế các giả thuyết nam thiên của các nhà sử học thời Pháp thuộc như Aurousseau, Chavannes, Madrolle, v.v… [17] Thuyết nam thiên của học giả PVC phù hợp với huyền sử bốn ngàn năm văn hiến của người Việt Nam, trong khi thuyết nam thiên của tác giả Nguyên Nguyên tương ứng với quan điểm chủ đạo ngày nay, cho rằng nhà nước Việt Nam chỉ ra đời trong thiên niên kỷ thứ nhất TTL. [18] Nhưng cả hai thuyết này đều giới hạn trong vòng một hai thiên niên kỷ TTL. Đây là một mốc thời gian quá trễ so với quá trình hình thành văn minh Bách Việt. Câu hỏi cần đặt ra là người Bách Việt nói chung và người nước Sở nói riêng từ đâu mà ra?*Nếu dùng mốc thời gian xa xưa hơn hai thiên niên kỷ TTL, các nhà khoa học lại kiếm thấy rất nhiều chứng cớ trái ngược với thuyết nam thiên. Các công trình nghiên cứu khảo cổ, nhân chủng, hình thái, ngôn ngữ và di truyền học từ thập niên 1960 đến nay có xu hướng cho rằng người Bắc Á chuyển hóa từ người Nam Á ra. [19] Cụ thể hơn, tổ tiên người Bách Việt đã đi từ nam lên bắc và đóng góp rất nhiều cho nhân chủng người Hoa Hán ngày nay. Đi xa hơn hết là giả thuyết của bác sĩ Oppenheimer. [20] Ông cho rằng ĐNÁ là cái nôi của nền văn minh nhân loại. Trận đại hồng thủy cách đây khoảng 8000 năm làm chìm đắm thềm lục địa Sunda, khiến các cư dân ĐNÁ phải di tản đi các vùng đất khác. Họ chính là những người gây dựng lên nền văn minh đồ đá mới tại Trung Quốc, Ấn Độ, Lưỡng Hà Châu, Ai Cập, và phía đông Địa Trung Hải.
Các học giả Việt Nam phản ứng như thế nào trước các khám phá nói trên?
-Trong phạm vi nhỏ hẹp của bài tiểu luận này, người viết xin tập trung vào một vài giả thuyết tiêu biểu. Chúng ta có thể bắt đầu bằng Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam (NGMLDTVN), một công trình khảo cứu công phu của nhà ngữ học Tô Văn Tuấn, tức là nhà văn Bình Nguyên Lộc. [21] Theo ông, chủng Indonesian/Malay đã bắc tiến trong hai lần di dân chính trong quá khứ: đợt 1 cách đây khoảng 5000 năm và đợt 2 cách đây chừng 2500 năm. Người Việt Nam cổ (mà ông gọi là Mã Lai đợt 1) đã từ miền nam tiến lên làm chủ miền bắc Trung Quốc, nhưng sau bị giống dân phía bắc đẩy lùi trở xuống. NGMLDTVN và TVTVĐM có một điểm chung lớn, đó là nguồn gốc Indonesian/Malay của người Bách Việt.
-Gần đây, tác giả Nguyễn Quang Trọng nhấn mạnh trở lại yếu tố nam thiên trong nguồn gốc bộ tộc Bách Việt. [22] Ông cho rằng người hiện đại thiên di từ châu Phi về phía ĐNÁ, tất cả thuộc chủng Nam Cổ (Australoid) (da đen, tóc quăn, mũi to). Khi gặp biển Đông, một nhóm tràn lên miền bắc Đông Á, đến tận Mông Cổ. Họ thay đổi dần nhân dạng vì lý do môi trường, và lai giống với chủng Altaic thiên di từ Tây Á cách đây khoảng 15000 năm, trở thành dân Bắc Mông (da trắng vàng, tóc thẳng, mắt nhỏ). Dân Bắc Mông ngày càng bành trướng về phía Nam, hợp chủng với giống Nam Cổ tại giữa Trung Quốc ngày nay và tạo thành dân Nam Mông (da ngăm đen, tóc dợn sóng). Chủng Nam Mông này chính là tổ tiên của dân Bách Việt, và cả những người tại các hải đảo Thái Bình Dương.
-Ngược với giả thuyết tân nam thiên là giả thuyết tân bắc tiến của tác giả Cung Đình Thanh. [23] Thuyết này nhấn mạnh vào hiện tượng biển tiến để giải thích phương hướng thiên di của người Bách Việt. Theo ông, người hiện đại di cư từ châu Phi đến Ðông Nam Á, tiếp cận biển Đông, một phần đi thẳng ra các hải đảo Thái Bình Dương và châu Úc, phần còn lại trụ tại ĐNÁ. Phần ở lại ĐNÁ, có thể là lưu vực sông Hồng, vì hội đủ điều kiện nên đột biến di truyền, đổi từ giống hắc chủng (da ngăm đen, tóc dợn sóng) ra giống hoàng chủng (da vàng, tóc thẳng). Đây là tổ tiên dân Bách Việt, chủ nhân của nền văn minh Hòa Bình. [24] Những người này đã dần dần tiến lên miền bắc, tức là Trung Quốc ngày nay, theo hai ngã (đông và tây) khi nước biển dâng lên lần cuối từ khoảng 18000 đến 7000 năm trước đây. Giả thuyết tân bắc tiến tương đối phù hợp với các nghiên cứu đa ngành gần đây, tuy rằng đâu là trung tâm văn hóa người Bách Việt cổ và phương cách đột biến từ hắc chủng ra hoàng chủng vẫn chỉ là những phỏng đoán.
*
Tóm lại, dựa trên các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học quốc tế, chúng ta có thể kết luận rằng người Bách Việt:
– là hậu duệ của người hiện đại đầu tiên trong vùng Đông Á (với di chỉ xương hóa thạch kiếm thấy tại Quảng Tây, ước lượng 60000–70000 tuổi). [25]
– sử dụng tiếng nói Austric, một trong bảy ngành tiếng nói cũ nhất của thế giới. Đây là loại tiếng nói đã thành hình và được sử dụng trong quá trình định cư đầu tiên của người hiện đại, trước khi văn minh nông nghiệp ra đời. [26]
– tràn lên miền bắc, hợp chủng với người hiện đại đến từ ngã Bắc và Trung Á và tạo thành người Bắc Á (tiêu biểu là Hán tộc).
– khai sinh kỹ thuật cấy lúa gạo ruộng nước (di chỉ tìm thấy tại Hemudu, nam Trung Quốc, Ban Kao, bắc Thái Lan, Sakai, bán đảo Mã Lai), mở đầu cho nếp sống định canh định cư và văn minh Hòa Bình vào khoảng 10000 đến 15000 năm trước đây. [27]
– phát minh kỹ thuật đồ đồng (tìm thấy tại Ban Chiang, Non Nok Tha, bắc Thái Lan và Phùng Nguyên), tương ứng với sự thành hình của các nhóm Bách Việt cách đây trên dưới 4000, 5000 năm. [28]
Theo các nhà khảo cổ và sử học, một số đặc trưng của văn minh Bách Việt gồm có: [29]
* trồng lúa nước;
* dùng trai, sò và các động vật lưỡng tính làm thực phẩm;
* cắt tóc ngắn và xăm mình;
* mặc quần ngắn, váy ngắn và đội khăn;
* cất nhà sàn;
* văn hóa biển và sông nước (đóng tàu dài, đua thuyền, giỏi dùng thuyền bè và hải chiến);
* đúc trống đồng;
* sản xuất đồ gốm và sứ theo dạng hình học;
* làm đồ sơn mài;
* thờ cúng ông bà;
* tín ngưỡng vật tổ, đặc biệt đối với chim, rắn;
* hội mùa xuân và thu cho trai gái vui chơi để tự do lựa vợ kén chồng;
* mai táng theo thế bó gối.
4./ Việt tộc và Hán tộc: Mời đọc PHẦN HAI (trang kết tiếp…)
–Trần Sơn sưu tầm FB/April2019–