Thiên Nhân đồng bộ…


Một ngày …lại một ngày…

Posted in Uncategorized | Leave a comment

Nay đúng thời – gần đỉnh cao của bọn đánh phá Thế giới và nước Mỹ (Canh Tý 2020).


936093_462079733888982_1891420375_n.jpg

Hãy nhìn vào cảnh báo” của TrờiTHIÊN

…Canh năm nay 2020 …Dịch họa Corona = thiên họa hay nhân họa xuất phát từ nước Cộng sản Tàu (?)

…sẽ tiếp đến “họa” từ ĐỊA, biển Đảo/Tân SỬU 2021

…và ứng với loài người (NHÂN) hành sử, ứng phó ra sao từ năm Nhâm DẦN/2022 trong đại chuyển đổi của VŨ TRỤ – NHÂN SINH

… mà Trạng Trình đã lưu ý : “Càn Khôn Cửu Cửu dĩ định”:
– từ Bính Thân 2016 (số 9) đến Ất Tỵ 2025 (số 9) khởi …
– năm Đinh Mùi 2027 (số9) -CS tiêu vong “Mã đề DƯƠNG cước anh hùng tận” …

=> để cho Nhân loại được hưởng thái bình, thịnh trị – tức “Thân Dậu(2029/số 9)  niên lai kiến thái bình”…(lời của Sấm Trạng)

Trần Sơn –

MỜI ĐỌC:

https://www.taiwannews.com.tw/en/news/3871594

Posted in Uncategorized | Leave a comment

Sấm ký NGUYỄN BĨNH KHIÊM và Thực Trạng Hiện hữu của các Quốc Gia – trong đó có Việt Nam .


52188088_2397282893624209_5081287791132803072_n

Sấm ký Trạng trình viết “CÀN KHÔN Cửu Cửu dĩ định”:
-” Long vĩ – Xà đầu khởi“từ Giáp THÌN (2024) sang Năm Ất TỴ/2025:2+0+2+5= Số 9
– “Mã đề-DƯƠNG cước (2027= 2+7) = Số 9 ..anh hùng tận
Thân -DẬU (2029) = số 9 niên lai..Kiến Thái bình ”
=> Thật sự là CHUYỂN ĐỔI LỚN mà Thế giới cho là Thế Chiến 3 chăng (?)
*
…Đây chỉ là Chu Kỳ/Trái Đất đang kết thúc Thời Kỳ HẠ NGUYÊN để chuyển sang THƯỢNG NGUYÊN hầu
– Nhân loại sống khôn ngoan và đạo đức hơn (Lịch Maya) hay
-Loài Người sẽ tiến lên giai đoạn Tâm và Trí phát triển cao hơn (Kinh kệ Bhagavad Gita)

Tran Son FB -13/11/2019 xin MỜI NGHE T/S Nguyễn Xuân Nghĩa..để nghiền ngẫm thêm:

Posted in Uncategorized | Leave a comment

Âm mưu Hán Hóa Việt Nam của Tàu Cộng với sự tiếp tay của CSvn…


45819861_1114376878725450_5432104151548952576_n

VN CHỈ CÓ NGƯỜI KINH, KHÔNG CÓ DÂN TỘC KINH

Nghĩa nhóm từ “người sinh sống tại một địa phương” trong tiếng Việt được hiểu là “người địa phương đó”. Thí dụ: người sinh sống ở kinh thành hay kinh đô, được gọi là “người kinh”, những người sinh sống tại Hà Nội, ta gọi là “người Hà Nội”. Nếu ai sinh sống tại Sài Gòn, ta gọi là “người Sài Gòn”…Người tị nạn cộng sản ở Hải Ngoại, khi gặp nhau thì thường hay hỏi thăm: “anh chị là người Sài Gòn hay Cần Thơ?
Như vậy, nhóm từ “người sinh sống tại một địa phương” không mang nghĩa là một dân tộc trong một nước Việt Nam, nói cách khác, nước ta không hề có dân tộc Hà Nội, dân tộc Sài Gòn, dân tộc Kinh, dân tộc Thượng, mà chỉ có người Hà Nội, người Sài gòn, người Kinh (đa số thuộc về dân tộc Việt hay Lạc Việt), sống ở vùng đồng bằng khác với người Thượng, là người VN sống ở vùng cao.

Chúng tôi người Việt hải ngoại là người Việt Nam đang sinh sống ngoài lãnh thổ VN, chứ không phải là “dân tộc kinh” theo cách gọi của con cháu Lê chiêu Thống thời đại Hồ chí Minh – Đám tinh hoa quý tộc này đang âm mưu Hán hoá dân tộc VN dưới sự chỉ đạo của Đại Hán.

Dư luận người Việt trong và ngoài nước gần đây đã đặc biệt chú ý về âm mưu của đế quốc đỏ Trung Cộng trong chiến lược Hán Hoá Việt tộc, bọn này tung tiền ra mua đất thành lập dưới hình thức “Đặc Khu Tự trị” ngay trong lòng nước Pháp cùng với sự thành lập một quốc gia gọi là “Kinh tộc” với âm mưu định hướng người Việt Nam vào nhóm 56 sắc tộc trong cộng đồng TQ. Đây là chiến thuật hết sức tinh vi, xảo quyệt nhằm thực hiện việc Hán hoá người Việt và văn hoá Việt qua sự tiếp tay của đám trí thức tay sai thiên triều như Bùi Hiền, tên phản quốc với cái gọi là công trình sáng tạo tiếng Việt cải tiến dùng để xóa bỏ chữ Quốc Ngữ, triệt tiêu văn hóa của Việt tộc. Việt gian CSVN một thứ tay sai của TQ, đã thực hiện Hán hoá Việt tộc qua nhiều hình thức khác nhau, như cho học sinh cầm cờ 6 sao thay vi 5 sao của TQ, để đón Tập Cận Bình đến VN để lên lớp các thái thú VN vào ngày 23 tháng 12. 2011. Hàng năm đám thái thú đến nghiêng mình để tưởng niệm các “liệt sĩ TQ” tại nghĩa trang ” Liệt sĩ TQ”, những tên lính xâm lăng nước VN lại được đám tinh hoa quý tộc Pắc Bó tôn vinh là Liệt sĩ. Một điều hết sức nghịch về tinh thần PHỤC HÁN của đám cẩu nô tài trong Bắc Bộ Phủ. Ngoài ra đám Việt gian này còn ký kết “Mật ước Thành Đô” vào năm 1990 giửa hai đảng cs Trung Việt để sát nhâp VN vào TQ, và trở thành một khu tự trị như kiểu Mãn, Hồi, Mông, Tạng. Xem https://www.voatiengviet.com/a/hoi-nghi-thanh-…/4160802.html

Gần đây nhất là các học giả trí thức đỏ không can đảm công nhận Biển đông là của VN; Hội thảo khoa học quốc tế về Biển Đông lần thứ 10 vào ngày 8/11/2018, với chủ đề “Biển Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển khu vực”, do Học viện Ngoại giao, Quỹ Hỗ trợ nghiên cứu Biển Đông (FESS) và Hội Luật gia Việt Nam đồng tổ chức – Đây là mối quốc nhục cho Việt tộc khi đám “trí thức khỉ đít đỏ” hay “quý tộc Pắc Bó” viết trên Panel chào mừng quan khách với cụm từ “South China Sea” biển Nam Trung hoa thay vì phải viết đúng là East Sea ( Biển đông ). Con cháu Lê Chiêu Thống thời đại HCM đang mang tội phản quốc vì đang thực hiện đúng chiến lược Hán hoá của Tàu Cộng về đất nước và con người VN! https://congly.vn/…/hoi-thao-khoa-hoc-quoc-te-bien-dong-lan…

Trở lại vấn đề “Kinh tộc” được ra mắt tại Paris ngày 21.5.2018, là âm mưu của đảng cộng sản VN và TQ trong việc đánh đồng 4 triêu đồng bào ở Hải Ngoại và 97 triệu trong nước vào nhóm sắc tộc thiểu số trong nhóm 56 sắc tộc của TQ. http://tredeponline.com/…/tu-toc-kinh-den-dac-khu-cua-nguo…/

KHÁI QUÁT VỀ DÂN TỘC

Dân tộc được định nghĩa là một cộng đồng gồm nhiều người sinh sông chung trong một lãnh thổ có chung một lịch sử, các quan hệ kinh tế, ngôn ngữ văn hoá, chung phong tục tập quán tỉ lệ di truyền DNA giống nhau. Người Việt là một dân tộc có lịch sử lâu đời nhất , có đủ 4 Haplotype A, B, C, D, chính vì thế người Việt là chủ nhân của nền văn hoá Hoà Bình có ảnh hưởng bao trùm vùng Đông Nam Á, Trung Cận Đông và cả Châu Mỹ….Có thể nói văn hoá mà người Trung hoa sở hữu hiện nay hầu hết có nguồn gốc từ VN.

Thực tế lịch sử cho chúng ta biết rằng còn có dòng họ Việt đang sinh sống bên Trung Hoa, bây giờ là Trung Quốc, tuy gọi là người TH nhưng đồng bào Việt của chúng ta vẫn còn giữ nguyên bản sắc văn hóa truyền thống Việt. Vào khoảng thế kỷ 16, có một số người Việt di cư lên phía bắc lập nghiệp ở vùng Trường Bình – Bạch Long. Vùng đất đó bấy giờ thuộc Đại Việt nhưng theo Công ước Pháp-Thanh ký năm 1887 giữa Pháp và nhà Thanh thì Trường Bình bị sáp nhập vào nước Trung Hoa. Thời gian trôi qua, nhóm người Việt này đã bị ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa. Tuy vậy một số ít trong họ vẫn nói tiếng Việt và sau này được coi là một sắc tộc thiểu số tại Trung Quốc.

Năm 1950, Hồ Chí Minh sang Bắc Kinh xin viện trợ vũ khí và đề nghị Hồng quân Trung Cộng sang tham chiến. Hồ Chí Minh đã ký “Ghi nhớ Hợp tác Việt Trung” trong đó điều 3 quy định: “Hai bên thống nhất Việt Nam dân chủ cộng hòa là một bộ phận của cộng hòa nhân dân Trung Hoa với quy chế của một liên bang theo mô hình các quốc gia nằm trong Liên Bang Xô Viết”. Và Hồ Chí Minh vào ngày 12-6-1953 tại Quảng Tây, đã cam kết chấp nhận Việt Nam là 1 quân khu như quân khu Quảng Châu của Trung Quốc. Tiếp theo đó Hồ Chí Minh và Phạm văn Đồng đã ký thỏa thuận giao quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc, sau cùng là cả Việt Nam trở thành một bang của Trung cộng theo mô thức Cộng Hòa Liên Bang Xô Viết sau khi chiếm được toàn cõi Việt Nam.

Năm 1990 tập đoàn CSVN lâm vào thế khốn cùng sau khi Liên Sô xụp đổ, nên Đế quốc mới Trung Cộng buộc tập đoàn Việt gian CS gồm Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu… phải sang Thành Đô ký cam kết mật việc bán nước ngày 4-9-1990; và tập đoàn Việt gian bán nước hiện nay do Việt gian Nguyễn Phú Trọng cầm đầu đang thực hiện những bước cuối cùng biến VN thành một khu tự trị của TQ vào năm 2020. http://danlambaovn.blogspot.com/…/mat-uoc-thanh-o-1990-tren…

TẠI SAO GỌI LÀ DÂN TỘC KINH?

Nước Việt Nam chỉ có dân tộc Việt thuần nhất về văn hóa, ngôn ngữ và phong
tục tập quán, chiếm đa số (87%) trong 54 sắc tộc. Nước Việt Nam không có dân tộc Kinh. Trước năm 1975, tại miền Nam chúng ta thường hay nói “Kinh Thượng một nhà” để chỉ tình đoàn kết giữa đồng bào sống ở miền xuôi (miền đồng bằng, kinh thành, kinh đô) với đồng bào sống ờ cao nguyên (thượng du, mạn ngược). Người Kinh mà người Thượng thường hay gọi, là để ám chỉ những người Việt (đa số), sống dưới đồng bằng, kinh thành, kinh đô…Ngược lại, những người dưới đồng bằng gọi người dân sống ở cao nguyên là người Thượng, bao gồm nhiều sắc tộc khác thiểu số như Thổ, Mán, Thái trắng, H’Mông, BaNa, Gia Rai, Ê Đê…

DÂN TỘC KINH TRÊN ĐẤT TÀU

Là sắc tộc thiểu số khoảng 18.000 người trong tổng số trên dưới 22.000 trong 56 nhóm sắc tộc của Trung Quốc, một số còn đang sinh sống ở Tam Đảo – Quảng Tây

Các tài liệu hành chính hiện nay viết rằng, Việt Nam có 54 dân tộc anh em. Đây là cách dùng từ không chuẩn do không phân biệt hai khái niệm tộc người hay sắc tộc (race) và dân tộc (nation). Dân tộc là cộng đồng người cùng một chủng tộc trong một quốc gia. Trong một quốc gia có một hay nhiều dân tộc với ý nghĩa chủng người. Tộc người là những sắc dân trong một chủng người.

Sau năm 1954, ảnh hưởng của tài liệu dân cư học Trung Quốc cho rằng ở “Trung Quốc có 56 dân tộc anh em”, các nhà lập pháp của Việt Nam DCCH cũng ghi trong hiến pháp: Việt Nam có 54 dân tộc anh em. Tuy nhiên sau đó, phát hiện sai lầm, người Trung Quốc đã sửa: Trung Quốc có 56 tộc người thuộc năm sắc tộc lớn là Hán, Hồi, Mông, Mãn, Tạng. Trong khi đó, do chưa có sự phân định rõ ràng, Việt Nam vẫn giữ 54 dân tộc trong các văn bản hành chính.
Theo Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia do nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chỉ đạo viết: “Người Kinh, hay dân tộc Kinh (chữ Hán 京族, bính âm: jīngzú, Hán-Việt: Kinh tộc) là một trong số 56 dân tộc được công nhận tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc). Người Việt hay người Kinh là một dân tộc hình thành tại khu vực địa lý mà ngày nay là miền Bắc Việt Nam và miền nam Trung Quốc. Đây là dân tộc chính, chiếm khoảng 86,2% dân số Việt Nam và được gọi chính thức là dân tộc Kinh để phân biệt với những dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Ngôn ngữ chính sử dụng là tiếng Việt theo nhóm Việt-Mường. Người Kinh sinh sống trên khắp toàn thể nước Việt Nam và một số nước khác nhưng đông nhất vẫn là các vùng đồng bằng và thành thị trong nước. Còn nếu tính cả hơn 4 triệu người Việt hải ngoại thì họ định cư ở Hoa Kỳ là đông nhất hơn 2 triệu người”

“Việt Nam là một giống nòi
Ngàn năm văn hiến nối đời cháu con
Kinh thượng một tấm lòng son
Chung tay giữ nước để còn tương lai
Nước tôi lịch sử nối dài
Bao năm chống lại giặc ngoài bắc phương
Dù cho trên vạn nẻo đường
Việt Nam giòng giống quê hương Lạc Hồng .
Hán nô tội ác chất chồng
Cúi đầu rước giặc giết giòng Rồng Tiên
Dân Nam theo bước thánh hiền
Quyết đem xương máu giữ bền nước non
Trái đất chẳng vuông vẫn tròn
Còn tim yêu nước vẫn còn Việt Nam !”
(T/g Xuan Ngoc Nguyen)

TẠI SAO DÂN TỘC VIỆT LẠI BIẾN THÀNH DÂN TỘC KINH??

Sách sử Tàu Hán cũng không ghi tên nước Việt dù vua triều Ân là Vũ Đinh có nhắc tới tên nước Việt nhưng các sử gia Tàu Hán vẫn viết là Yu, Yufang, Guifang, Gui và An Nam… mãi tới năm 1804, khi vua Gia Long sai Lê Quang Định đi sứ sang triều Thanh xin đặt tên nước là Nam Việt thì vua Thanh sợ nhắc tới Nam Việt bất lợi nên đổi lại là Việt Nam… Tên nước, quốc hiệu Việt Nam mới bắt đầu từ đó…và cộng đồng dân tộc Việt Nam cùng xuất hiện từ đó.

Đến khi Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do Hồ Chí Minh lãnh đạo kể từ ngày 2.9.1945 đã không coi người Việt là dân tộc Việt Nam, mà được coi là một nhóm tộc thiểu số có trong 56 nhóm sắc tộc Trung Quốc, được gọi là “Dân tộc Kinh”; diều này đã được ghi trong các giấy tờ tuỳ thân, hộ khẩu, đơn từ.

Theo thống kê của nhà nước CHXHCNVN thì dân số Việt Nam gồm 54 dân tộc trong đó dân tộc Kinh là đông nhất 55.900.244 người, kế tiếp là dân tộc Tày 1.190.342 người, dân tộc Thái 1.040.549 người và dân tộc Ơđu ít nhất chỉ còn 32 người. Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do Hồ Chí Minh thành lập và điều hành từ ngày 2.9.1945 và nay là CHXHCNVN đã bắt buộc người dân trong nước phải ghi trong chứng minh nhân dân, không được ghi là dân tộc Việt Nam mà phải ghi là dân tộc Kinh là một sắc tộc thuộc nhóm thiểu số của Trung Quốc trong các giấy tờ, hộ khẩu, đơn từ… Các công dân VN, từ khai sinh đến hộ khẩu hay chứng minh ND…đều có mục phải ghi là ” dân tộc kinh”. Và cũng kể từ ngày 1/4/2014, Bộ Công an và Công an TP Hà Nội sẽ thực hiện việc cấp đổi CMND mới 12 số có thêm một chi tiết mới đó là ghi thêm phần ” dân tộc kinh”, trên toàn bộ 29 quận, huyện. Còn thành Hồ bắt đầu thực hiên từ ngày 7-12-2015, thay cho CMND 9 số có từ trước (không có ghi phần “dân tộc kinh”).

Quyết định ghi “dân tộc kinh “trong các chứng từ cá nhân của những công dân CHXHCNVN là một chủ trương PHẢN DÂN TỘC, vì trong lịch sử chúng ta là dân tộc Việt từ thời lập quốc cho tới ngày nay và không thể nào lại có một dân tộc trong một dân tộc được.

Nhìn lại toàn bộ tiến trình lịch sử Việt, chúng ta thấy rằng Tàu Hán xưa và đế quốc mới Trung Cộng ngày nay không từ bỏ ý đồ xâm chiếm thống trị Hán hóa dân tộc Việt Nam chúng ta. Việc Hồ Chí Minh bắt người Việt Nam chúng ta phải khai là dân tộc Kinh đến việc ký kết mật ước Thành Đô và mới đây thành lập cái gọi là quốc gia Kinh tộc trên đất Pháp để chuẩn bị cho tiến trình biến Việt Nam thành một khu tự trị năm 2020 lấy tên là “KHU TỰ TRỊ DÂN TỘC KINH” thuộc Trung Quốc của Nguyễn Phú Trọng, nhằm xỏa bỏ vĩnh viễn nước VIỆT trên bản đồ thế giới và Việt tộc trong cộng đồng quốc tế! Tóm lại Việt tộc trong thời gian tới sẽ trở thành ” tộc kinh” trong nhóm 56 sắc tộc của TQ.Biên khảo Hậu duệ VNCH Lê Kim Anh-Tham Khảo…https://www.youtube.com/watch?v=…

ĐỌC THÊM:

 

76961915_492107038315117_4740467812479270912_n

Đây là “Ông già Ozon” tiến sỹ Nguyễn Văn Khải, sáng nay đăng một stt ngắn vài dòng, đọc mà lòng quặn thắt.
“TRONG NGÔI NHÀ NÀY BỐ TÔI ĐÃ TỪNG LÀM VIỆC NĂM 1936, Khi ấy cụ là thư ký Sở Hỏa xa Vân nam của Việt Nam có công tác phải làm việc ở đây….Bây giờ đất này thuộc Trung Quốc rồi”.
Năm 1999 Hiệp ước phân chia biên giới Việt Nam- Trung Quốc, lúc đó là Đỗ Mười và Lê Khả Phiêu nhượng cho Trung cộng cả Ải Nam Quan, một nữa Thác Bản Giốc, đất này của VN, giờ cột mốc biên giới bị lùi sâu vào lãnh thổ VN 5km rồi, đoạn này cách Ga Đồng Đăng 5km. Đất này của Cha Ông để lại, đảng cộng sản quyền gì bán thế?
Ải Nam Quan, thực chất đã được Mao và Hồ Chí Minh thỏa thuận trước đó, nên mới có chuyện Mao đổi 3 chữ Trấn Nam Quan thành Mục Nam Quan, bây giờ là Hữu Nghị Quan. Chỉ đến năm 1999, hiệp ước phân chia biên giới đất liền mới chính thức thành văn bản, lúc đó VN chính thức bị mất 789 km2 trên bản đồ thế giới.
Thế mà chúng đòi bán cả 3 Đặc khu nữa, mà thực tế 3 Đặc khu đã bán và vẫn đang triển khai xây dựng.
*
Đau chứ? Phẫn nộ chứ? Căm hận bọn bán nước chứ? Ai có lương tri sao mà không được😢( Sưu tầm FB/Phạm Minh Vũ -11/2019)

 

Posted in Uncategorized | 3 Comments

Mùa Thu trong tôi.


Bagan3's Blog

1375979_546343755444347_1986869600_n
NHƯ CÁNH HẠC BAY
“Thinh không
Nhịp đập lao xao
Thời Không gõ phách
nôn nao hạc Hùng

Thiên di
Cánh hạc chập chùng
Miên đông hạc ẩn
Mây trùng chối chân”.
pink-flamingos-at-jurong-bird-park-311
“Mưa giăng trấn
Đất chuyển mình
Hùng hoang quần tụ
Xuân chinh thái hòa”.

*
images Cổ Việt = Lạc Hồng cũng là nơi quần sinh loài Hồng hạc;
Hình ảnh Hồng (Hùng) hạc được ghi tạc trên các Trống Đồng (Đông Sơn).
-Trần Sơn SN/10/2013 –

View original post

Posted in Uncategorized | Leave a comment

Những người chạy …Việt Dã…


68808690_1405659359587570_3706214424604835840_n

…Là đây ! Tìm đâu cho mất công …

*

1/Chủ nhân đất nước thì chạy cơm – chạy gạo; chạy áo, chạy tiền, chạy học – chạy hành, chạy đi lao nô mười phương thiên hạ; vác bướm chạy mời năm châu; chạy trốn cường quyền;
…chúi đầu chạy cướp biển “lạ”; chạy khổ triền miên …

Đầy tớ nhân dân thì chạy chức – chạy quyền, chạy hốt bằng giả, chạy nơi vơ vét; chạy kiếm ghế liếm trôn
…đồng thời chạy nơi học -hành cho con cái; nơi cư ngụ cho gia đình + của cải đã tham lạm ..vào các nước tư bản dãy chết (!)

Đất nước tan hoang, thê thảm đêu tàn, mạnh ai nấy chạy.
Thằng nào không chạy, nát thân kệ bây.
*
Hồn ai nấy giữ…
… cu ai nấy ôm – bướm ai nấy bụm;
…nhìn quanh làm gì…”
(Trần Sơn -Sưu tầm FB /MACKENO – 8/2019)

2/ MỜI NGHE:
-a)Trung Cộng sau hội nghị Bắc Đới Hà….

 

 

b/ Sôi Máu Với Lũ Hèn Nhát!

-Chỉ có những kẻ hèn nhát, lười biếng, tâm thức nô lệ quỳ lạy bọn xâm lăng mới không biết động não và để cửa ngõ biên giới cùng lãnh hải bỏ ngỏ, không canh gác, để cho giặc ra vào như đi chợ mà không biết nhục !
-Chỉ có những tên bán nước đàng điếm, ham quyền cố vị, tham tiền tham danh, mới xiêm xua áo quần sang Trung Cộng bắt tay ôm hôn trong khi giặc xâm lấn Bãi Tư Chính lại im thin thít !
-Chỉ có những thằng/con ngu xuẩn, hèn hạ, tâm thức nô lệ mới để cho giặc ngang nhiên ra vào lãnh thổ ngông nghênh mà không thấy đau, không thấy nhục, không thấy sôi máu!
-Bảo vệ đất nước là phải biết bảo vệ tài nguyên nhân tài, nhân lực, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, cửa nẻo biên thùy chặt chẽ, phòng vệ ngày đêm! Chứ không phải là mở cửa toang hoang trải thảm đỏ rước giặc vào, nhận tiền của chúng, ký hợp đồng với giặc rồi bán hết tài nguyên thiên nhiên, bán hết đất đai biển đảo, giam cầm nhân tài, tuổi trẻ tương lai đất nước!
*
Chỉ có những con khỉ trong hang Pac Po, con cháu của lũ ngu xuẩn bán nước nối giáo cho giặc mới có thể ngồi nhìn giặc Khựa ngang nhiên ra vào lãnh hải Tổ Quốc Việt Nam!
Hãy nhìn vào bản đồ và xem có bóng dáng hải quân, cảnh sát biển, hay không quân csvn không ?
Bọn này chết tiệt xứ nào ???
.. chưa nói tới chuyện bắn nhau, ta chỉ hỏi cái đám chết tiệt ăn lương của dân giờ đang chui rúc chỗ nào mà không có mặt ngay trên biển trong khu vực lãnh hải VN và không phận VN ???
(Phong Lan FB/8/2019)

 

 

 

 

Posted in Uncategorized | 1 Comment

Bách Việt và Asean trên vùng định mệnh – Đinh Việt Nhân/talawas2005-


525214_282030835208405_385920206_n

(PHẦN MỘT) –1./ Dẫn nhập.
Tựa đề của bài tiểu luận này lấy từ loạt bài “Trăm Việt trên vùng định mệnh”(TVTVĐM) của học giả Phạm Việt Châu (PVC). Loạt bài TVTVĐM xuất hiện lần đầu trên tạp chí Bách Khoa từ năm 1969 đến năm 1974. [1] Viết trong thời kỳ sôi động nhất của cuộc chiến Việt Nam, tư tưởng của học giả PVC là một viễn kiến chính trị vượt không gian và thời gian. Những biến chuyển kinh tế, chính trị gần đây trên trường quốc tế, nhất là các tranh chấp tại biển Đông, lại càng làm tăng giá trị cảnh cáo của viễn kiến đó.
Các ý chính trong sách TVTVĐM có thể tóm lược như sau. Thứ nhất, các quốc gia Đông Nam Á (ĐNÁ) có chung nguồn gốc Bách Việt. Nói rõ hơn, tổ tiên dân ĐNÁ ngày nay là bộ tộc Bách Việt, đã nam thiên xuống Việt Nam, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân, Căm Bốt, Miến Điện, Thái Lan, Lào, v.v…, theo nhiều đợt khác nhau trong quá khứ. Thứ hai, các hậu duệ của bộ tộc Bách Việt đã đi tới đoạn đường chót của cuộc hành trình lịch sử, không còn nơi nào, chỗ nào để mà thiên di xa hơn nữa, trong khi áp lực truyền kiếp từ phương Bắc vẫn tiếp tục đè nặng xuống. Thứ ba, các quốc gia ĐNÁ chỉ có thể xây dựng được một thế đứng độc lập bằng cách triệt tiêu các ý hướng dựa vào các đế quốc mới. Các nước ĐNÁ cần quần tụ trong bình đẳng, hỗ tương, vừa giữ được thế tự lập đơn vị, vừa tạo ra sức mạnh tập thể. [2]
Đọc kỹ hơn, TVTVĐM có rất nhiều dữ kiện cập nhật (vào thời điểm đó) và tài liệu quý báu cho ngành Việt học, đặc biệt là Việt cổ học. Với tinh thần khoa học, khách quan, với lối suy nghĩ tiến bộ và với niềm tự hào dân tộc, học giả PVC đã đánh giá đúng đắn những thành quả văn minh Bách Việt nói chung, và Lạc Việt nói riêng. Ông viết:
“Cho nên, những người viết sử hôm nay, nếu thành thật với mình với người tất không thể nào phủ nhận được công trình xây dựng nền văn minh chói lọi và cổ nhất Đông-Nam-Á của bộ tộc Lạc-Việt.” [3]
Mấy năm gần đây, ngành Việt cổ học đã trở nên khá phát triển trong cộng đồng người Việt tại hải ngoại. Ngoài các tạp chí chuyên đề như Tư Tưởng, một số bài nghiên cứu khá nghiêm túc đã bắt đầu xuất hiện khá thường xuyên trên rất nhiều tạp chí tiếng Việt nước ngoài (thí dụ như Diễn Đàn, Hợp Lưu, KhoaHoc&ĐoiSong, talawas, Thế Kỷ 21, Thời Đại Mới, v.v…). Các công trình biên khảo gần đây, tiêu biểu nhất là Tìm về nguồn gốc văn minh Việt Nam, [4] đều góp phần, không ít thì nhiều, trong việc phát huy ý kiến trên.
Mùng 5 tháng 5 năm 2005 vừa qua là ngày giỗ 30 năm của học giả PVC. Đây là một dịp tốt để chúng ta cùng nhìn lại, đánh giá và triển khai tư tưởng TVTVĐM. Với khả năng và hiểu biết hạn hẹp của mình, người viết xin giới hạn trong đề tài Bách Việt và Hiệp hội các quốc gia ĐNÁ (ASEAN), tức là một góc cạnh lớn (nhưng không phải là góc cạnh duy nhất) của TVTVĐM. Vì nội dung bài viết ra ngoài phạm vi nghiên cứu chuyên môn của mình, người viết sẽ không tránh khỏi ít nhiều sai lạc và thiếu sót. Vì thế, kính xin bạn đọc bốn phương vui lòng lượng thứ và bổ túc, để chúng ta cùng nhau góp ý cho đề tài quan trọng này.
Bố cục của các phần còn lại trong bài như sau. Phần 2 phác họa vài nét đại cương về lịch sử bộ tộc Bách Việt. Phần 3 thảo luận nguồn gốc và văn minh Bách Việt dựa trên các khám phá khoa học hiện đại. Phần này cho thấy Việt tộc đã có những đóng góp rất đáng kể vào văn minh nhân loại. Phần 4 bàn về sự tương quan giữa Việt tộc và Hán tộc. Thái độ chủ quan, mập mờ, che dấu sự thật của người Hán đã góp phần không nhỏ vào niềm tự ti dân tộc của nhiều người Việt ngày nay. Phần 5 phân tích ASEAN như một ý chí và hình thức nối kết của Bách Việt trong thế kỷ 20-21, đúng như ý nguyện của học giả PVC lúc sinh thời.

563410_282034815208007_1592071169_n

2./ Vài nét về lịch sử Bách Việt:
Bách Việt là tiếng của người Hán dùng để chỉ tập hợp các sắc dân chủng Việt (phần lớn cư ngụ tại miền nam sông Dương Tử) mà người Hoa Hán gặp gỡ và tranh đấu khi họ bành trướng từ Hoa Bắc xuống Hoa Nam. Lãnh thổ của bộ tộc Bách Việt, theo huyền sử, là nước Xích Quỷ [5] dưới quyền vua Kinh Dương, bắc giáp Hồ Nam, nam giáp Chiêm Thành, tây giáp Tứ Xuyên, đông giáp biển Đông. Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc khoảng thế kỷ thứ ba trước Tây Lịch (TTL), sử sách ghi nhận các nước Hồ Việt (ở Hồ Nam), U Việt (ở Triết Giang), Mân Việt (ở Phúc Kiến), Đông Việt (ở Giang Tây), Nam Việt (ở Quảng Đông), Âu Việt (ở Quý Châu & Quảng Tây), Điền Việt (ở Vân Nam), Lạc Việt (bắc Việt Nam), Chiêm Việt (đảo Hải Nam), v.v… [6] Các nước này nằm kế tiếp nhau từ miền nam sông Dương Tử, qua lưu vực sông Hồng, xuống tận bình nguyên sông Mã. Đó là chưa kể những tổ hợp người Việt sống rải rác miền tây nam Trung Quốc chưa tổ chức thành quốc gia, có khi còn gọi là dân Bách Bộc. [7] Nhưng cũng có nhà nghiên cứu lại cho rằng Bách Bộc hay Bộc Việt là tiếng người Hoa Hán dùng để chỉ chủng tộc Việt ở phía bắc sông Dương Tử. [8]
Sau khi nhà Tần thống nhất được miền bắc Trung Quốc và một số lãnh thổ miền nam sông Dương Tử, các nước Việt nhỏ dần dần bị suy sụp, chỉ có Mân Việt, Đông Việt và Nam Việt nhà Triệu (bao gồm Nam Việt, Âu Việt, Lạc Việt ) là còn tự trị. [9] Sang đến thế kỷ thứ nhất TTL, các nước này cũng bị nhà Hán thôn tính nốt, tuy rằng các tổ hợp Bách Việt vẫn sống rải rác khắp miền nam Trung Quốc. Trải qua thăng trầm của hai ngàn năm lịch sử, phần lớn lãnh thổ Bách Việt đã bị sát nhập vào bản đồ Trung Quốc và rất nhiều văn minh Bách Việt dần dần bị đồng hóa vào văn minh Trung Quốc.
Đến đây, người viết xin nhấn mạnh ba điểm.
Thứ nhất, trong TVTVĐM, học giả PVC có vẻ hàm ý lãnh thổ sinh hoạt của bộ tộc Bách Việt giới hạn vào miền nam sông Dương Tử. Thật ra, các công trình nghiên cứu khảo cổ và nhân chủng học gần đây cho thấy người Bách Việt đã vượt sông Dương Tử rất lâu trước khi văn minh Trung Quốc bắt đầu thành hình. [10] Gần hơn nữa, trong thời Xuân Thu Chiến Quốc, người Bách Việt sống rải rác trong các vùng Hoa Bắc, điển hình là nước Sở (ban đầu, gồm Hồ Bắc ngày nay), nước Tề (Sơn Đông), nước Tấn (Sơn Tây-Hà Bắc), v.v… [11]
– Thứ hai, vì chỉ có nước Việt Nam vẫn còn dùng chữ Việt trong quốc hiệu, có người ngộ nhận cho rằng người Bách Việt đã bị đồng hóa vào văn minh Trung Quốc, ngoại trừ người Việt Nam. Thật ra, như học giả PVC đã nhấn mạnh ngay từ đầu, tất cả các quốc gia ĐNÁ như Miến Điện, Thái Lan, Lào, Việt Nam, Căm Bốt, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân, v.v…, đều do hậu duệ của đại chủng Bách Việt thành lập tại những thời điểm khác nhau. Theo học giả, Thái Lan có thể xem là một nước có nguồn gốc gần gũi với Việt Nam hơn cả. [12] Người Thái chính là bộ tộc Lý thuộc nhóm Âu Việt ở Quảng Tây trong nước Nam Việt nhà Triệu cũ. Sau khi Nam Việt nhà Triệu bị nhà Hán thôn tính, người Thái bỏ nước di cư, lập ra nước Nam Chiếu (Đại Lý). Đến thế kỷ 13, Đại Lý bị quân Mông Cổ phá vỡ hoàn toàn. Chính trong dịp này, người Thái lại nam thiên và hội tụ với các sắc dân Thái địa phương, sáng lập ra các vương quốc hùng mạnh, tiền thân của nước Thái Lan và Lào ngày nay. Điểm đáng chú ý là người Đại Lý đã đóng góp xương máu vào cuộc khởi nghĩa chống Hán của Hai Bà Trưng, cũng như đã hai lần chiếm lại thủ phủ Đại La (Hà Nội) từ nhà Đường vào thế kỷ thứ 9.
-Thứ ba, học giả PVC cũng không quên nhắc đến hai vương quốc cổ, Chiêm Thành và Phù Nam. [13] Theo học giả, người Chàm đã trở về với khối gia đình Lạc Việt, [14] còn người Phù Nam đã hòa vào tộc Mon-Khmer. Tuy ngày nay Chiêm Thành và Phù Nam không còn chỗ đứng riêng trong tập thể ĐNÁ, hai nước này đã đóng vai trò rất quan trọng trong thời kỳ đầu Tây lịch. Chiêm Thành và Phù Nam từng là gạch nối giữa tổ hợp đã suy sụp (Nam Việt nhà Triệu) và các tổ hợp đang hình thành ở lục địa cũng như hải đảo, cho dòng giống Bách Việt còn mãi mãi nối tiếp.

3./ Nguồn gốc và văn minh Bách Việt:
Các học giả ngày nay vẫn chưa hoàn toàn nhất trí về cội nguồn bộ tộc Bách Việt, nhất là vấn đề “nam thiên” hay “bắc tiến”. Các giả thuyết nam thiên phần lớn dựa trên cổ sử, nhất là cổ sử Trung Quốc. Như phần 4 sẽ trình bày, cổ sử Trung Quốc về Bách Việt chỉ có thể tin được phần nào. Các giả thuyết sau này, dựa trên các chứng cớ nghiên cứu đa ngành, có xu hướng làm đảo lộn các giả thuyết cũ, và do đó chưa được tất cả các nhà khoa học hoàn toàn chấp nhận. Các nghiên cứu di truyền học gần đây, tuy chưa minh xác hoàn toàn nguồn gốc người Bách Việt, nhưng đã làm sáng tỏ phần nào liên hệ giữa người Bách Việt và người Hoa Bắc.
Theo TVTVĐM, cuộc nam thiên của người Bách Việt có thể tạm chia làm bốn thời kỳ: [15]
–Đợt 1: vào giữa thiên niên kỷ thứ ba đến cuối thiên niên kỷ thứ hai TTL và bao gồm các sắc dân cựu Malay, tân Malay và Lạc Việt. Đợt nam thiên này lập ra các nước Việt Nam, Mã Lai, Nam Dương và Phi Luật Tân.
-Đợt 2: vào đầu thiên niên kỷ thứ nhất đến giữa thế kỷ thứ ba TTL và bao gồm các nhóm Mon và Khmer. Đợt nam thiên này lập ra các vương quốc Draravati và Chân Lạp, và cuối cùng là Căm Bốt ngày nay.
-Đợt 3: vào cuối thế kỷ thứ ba đến cuối thế kỷ thứ bảy và bao gồm bộ tộc Miến (trong đó có dân Pyu). Đợt nam thiên này cuối cùng lập ra Miến Điện.
-Đợt 4: đợt di cư ào ạt của người Thái vào thế kỷ thứ 13 và các đợt nhỏ kế sau, như đã bàn bên trên. Các đợt nam thiên này sau cùng lập thành Thái Lan và Lào.

*Gần đây, nhà nghiên cứu Nguyên Nguyên chỉ đích danh nước Sở là cái nôi nước Thái Lan và Viêt Nam ngày nay. [16] Theo ông, chủng Âu (người Thái cổ) chính là thành phần cư dân chủ lực của nước Sở vào thời Xuân Thu Chiến Quốc. Vì lý do thiên tai mất mùa và chiến tranh loạn lạc, cư dân nước Sở đã di tản hàng khối xuống phương nam, đến tận bình nguyên sông Hồng, từ thế kỷ thứ tám đến thế kỷ thứ ba TTL. Như vậy, truyền thuyết Âu Cơ–Lạc Long Quân có thể giải mã là sự cố gắng hợp chủng không thành công của hai chủng Âu và Lạc (người Việt cổ) trước áp lực bành trướng của người Hoa Bắc.

*Ngẫm cho cùng, hai thuyết nói trên chỉ là sự triển khai và làm tinh tế các giả thuyết nam thiên của các nhà sử học thời Pháp thuộc như Aurousseau, Chavannes, Madrolle, v.v… [17] Thuyết nam thiên của học giả PVC phù hợp với huyền sử bốn ngàn năm văn hiến của người Việt Nam, trong khi thuyết nam thiên của tác giả Nguyên Nguyên tương ứng với quan điểm chủ đạo ngày nay, cho rằng nhà nước Việt Nam chỉ ra đời trong thiên niên kỷ thứ nhất TTL. [18] Nhưng cả hai thuyết này đều giới hạn trong vòng một hai thiên niên kỷ TTL. Đây là một mốc thời gian quá trễ so với quá trình hình thành văn minh Bách Việt. Câu hỏi cần đặt ra là người Bách Việt nói chung và người nước Sở nói riêng từ đâu mà ra?*Nếu dùng mốc thời gian xa xưa hơn hai thiên niên kỷ TTL, các nhà khoa học lại kiếm thấy rất nhiều chứng cớ trái ngược với thuyết nam thiên. Các công trình nghiên cứu khảo cổ, nhân chủng, hình thái, ngôn ngữ và di truyền học từ thập niên 1960 đến nay có xu hướng cho rằng người Bắc Á chuyển hóa từ người Nam Á ra. [19] Cụ thể hơn, tổ tiên người Bách Việt đã đi từ nam lên bắc và đóng góp rất nhiều cho nhân chủng người Hoa Hán ngày nay. Đi xa hơn hết là giả thuyết của bác sĩ Oppenheimer. [20] Ông cho rằng ĐNÁ là cái nôi của nền văn minh nhân loại. Trận đại hồng thủy cách đây khoảng 8000 năm làm chìm đắm thềm lục địa Sunda, khiến các cư dân ĐNÁ phải di tản đi các vùng đất khác. Họ chính là những người gây dựng lên nền văn minh đồ đá mới tại Trung Quốc, Ấn Độ, Lưỡng Hà Châu, Ai Cập, và phía đông Địa Trung Hải.
Các học giả Việt Nam phản ứng như thế nào trước các khám phá nói trên?

-Trong phạm vi nhỏ hẹp của bài tiểu luận này, người viết xin tập trung vào một vài giả thuyết tiêu biểu. Chúng ta có thể bắt đầu bằng Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam (NGMLDTVN), một công trình khảo cứu công phu của nhà ngữ học Tô Văn Tuấn, tức là nhà văn Bình Nguyên Lộc. [21] Theo ông, chủng Indonesian/Malay đã bắc tiến trong hai lần di dân chính trong quá khứ: đợt 1 cách đây khoảng 5000 năm và đợt 2 cách đây chừng 2500 năm. Người Việt Nam cổ (mà ông gọi là Mã Lai đợt 1) đã từ miền nam tiến lên làm chủ miền bắc Trung Quốc, nhưng sau bị giống dân phía bắc đẩy lùi trở xuống. NGMLDTVN và TVTVĐM có một điểm chung lớn, đó là nguồn gốc Indonesian/Malay của người Bách Việt.

-Gần đây, tác giả Nguyễn Quang Trọng nhấn mạnh trở lại yếu tố nam thiên trong nguồn gốc bộ tộc Bách Việt. [22] Ông cho rằng người hiện đại thiên di từ châu Phi về phía ĐNÁ, tất cả thuộc chủng Nam Cổ (Australoid) (da đen, tóc quăn, mũi to). Khi gặp biển Đông, một nhóm tràn lên miền bắc Đông Á, đến tận Mông Cổ. Họ thay đổi dần nhân dạng vì lý do môi trường, và lai giống với chủng Altaic thiên di từ Tây Á cách đây khoảng 15000 năm, trở thành dân Bắc Mông (da trắng vàng, tóc thẳng, mắt nhỏ). Dân Bắc Mông ngày càng bành trướng về phía Nam, hợp chủng với giống Nam Cổ tại giữa Trung Quốc ngày nay và tạo thành dân Nam Mông (da ngăm đen, tóc dợn sóng). Chủng Nam Mông này chính là tổ tiên của dân Bách Việt, và cả những người tại các hải đảo Thái Bình Dương.
-Ngược với giả thuyết tân nam thiên là giả thuyết tân bắc tiến của tác giả Cung Đình Thanh. [23] Thuyết này nhấn mạnh vào hiện tượng biển tiến để giải thích phương hướng thiên di của người Bách Việt. Theo ông, người hiện đại di cư từ châu Phi đến Ðông Nam Á, tiếp cận biển Đông, một phần đi thẳng ra các hải đảo Thái Bình Dương và châu Úc, phần còn lại trụ tại ĐNÁ. Phần ở lại ĐNÁ, có thể là lưu vực sông Hồng, vì hội đủ điều kiện nên đột biến di truyền, đổi từ giống hắc chủng (da ngăm đen, tóc dợn sóng) ra giống hoàng chủng (da vàng, tóc thẳng). Đây là tổ tiên dân Bách Việt, chủ nhân của nền văn minh Hòa Bình. [24] Những người này đã dần dần tiến lên miền bắc, tức là Trung Quốc ngày nay, theo hai ngã (đông và tây) khi nước biển dâng lên lần cuối từ khoảng 18000 đến 7000 năm trước đây. Giả thuyết tân bắc tiến tương đối phù hợp với các nghiên cứu đa ngành gần đây, tuy rằng đâu là trung tâm văn hóa người Bách Việt cổ và phương cách đột biến từ hắc chủng ra hoàng chủng vẫn chỉ là những phỏng đoán.
*
Tóm lại, dựa trên các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học quốc tế, chúng ta có thể kết luận rằng người Bách Việt:
– là hậu duệ của người hiện đại đầu tiên trong vùng Đông Á (với di chỉ xương hóa thạch kiếm thấy tại Quảng Tây, ước lượng 60000–70000 tuổi). [25]
– sử dụng tiếng nói Austric, một trong bảy ngành tiếng nói cũ nhất của thế giới. Đây là loại tiếng nói đã thành hình và được sử dụng trong quá trình định cư đầu tiên của người hiện đại, trước khi văn minh nông nghiệp ra đời. [26]
– tràn lên miền bắc, hợp chủng với người hiện đại đến từ ngã Bắc và Trung Á và tạo thành người Bắc Á (tiêu biểu là Hán tộc).
– khai sinh kỹ thuật cấy lúa gạo ruộng nước (di chỉ tìm thấy tại Hemudu, nam Trung Quốc, Ban Kao, bắc Thái Lan, Sakai, bán đảo Mã Lai), mở đầu cho nếp sống định canh định cư và văn minh Hòa Bình vào khoảng 10000 đến 15000 năm trước đây. [27]
– phát minh kỹ thuật đồ đồng (tìm thấy tại Ban Chiang, Non Nok Tha, bắc Thái Lan và Phùng Nguyên), tương ứng với sự thành hình của các nhóm Bách Việt cách đây trên dưới 4000, 5000 năm. [28]
Theo các nhà khảo cổ và sử học, một số đặc trưng của văn minh Bách Việt gồm có: [29]
* trồng lúa nước;
* dùng trai, sò và các động vật lưỡng tính làm thực phẩm;
* cắt tóc ngắn và xăm mình;
* mặc quần ngắn, váy ngắn và đội khăn;
* cất nhà sàn;
* văn hóa biển và sông nước (đóng tàu dài, đua thuyền, giỏi dùng thuyền bè và hải chiến);
* đúc trống đồng;
* sản xuất đồ gốm và sứ theo dạng hình học;
* làm đồ sơn mài;
* thờ cúng ông bà;
* tín ngưỡng vật tổ, đặc biệt đối với chim, rắn;
* hội mùa xuân và thu cho trai gái vui chơi để tự do lựa vợ kén chồng;
* mai táng theo thế bó gối.

4./ Việt tộc và Hán tộc: Mời đọc PHẦN HAI (trang kết tiếp…)

Trần Sơn sưu tầm FB/April2019

 

Posted in Uncategorized | Leave a comment

Bách Việt và Asean trên vùng định mệnh – Đinh Việt Nhân/talawas2005- (tiếp theo)


530136_282036215207867_1870255803_n.jpg

PHẦN HAI -( tiếp theo và hết):

4./ Việt tộc và Hán tộc:

Trong bài này, Việt tộc có nghĩa là hậu duệ của người Bách Việt. Như vậy, Việt tộc ngày nay bao gồm một số lớn người Hoa Nam và gần như toàn thể dân ĐNÁ. Trong khi đó, Hán tộc là một danh từ không có nghĩa rõ ràng. Tổ tiên người Hán là dân du mục, với văn hóa chăn nuôi, hỏa canh. Họ di cư đến miền tây bắc Trung Quốc từ phía Trung Á. Lúc ban đầu, họ sống trên những cánh đồng cỏ Cam Túc, Thiểm Tây, v.v…, và lập ra nền văn minh Hoa Hạ dẫn đến các triều đại Thương và Châu. Đến thời nhà Tần và Hán, người Hán dần dần thôn tính các nước người Việt chung quanh, mở đầu cho nền văn minh đa sắc tộc Trung Quốc. [30] Trong thời kỳ phong kiến, người Hán thường dùng các danh từ có ý miệt thị như Đông Di và Nam Man để chỉ người Bách Việt. [31] Nhưng đột nhiên đến đầu thế kỷ 20, khi Tôn Dật Tiên khai sinh ý niệm Trung Hoa Dân Quốc với năm chủng tộc Hán, Mãn, Mông, Tạng, Hồi, thì Việt tộc chính thức biến mất trong bản đồ sắc tộc Trung Quốc.

Ý nghĩa của chủ thuyết Trung Quốc ngũ chủng là gì? Vì Việt tộc tại Trung Quốc không thể nào tuyệt chủng, cách suy diễn hợp lý duy nhất là người Hán và Việt đã hợp nhất thành một chủng tộc, do đó người Hoa gốc Việt tại Hoa Nam ngày nay được hoàn toàn xem như người Hán. Lối suy luận này cũng hàm ý lịch sử là giống người Bách Việt man di mọi rợ ghi trong cổ sử đã được người Hán khai hóa, và đến đầu thế kỷ 20, quá trình Hán hóa coi như hoàn toàn. Tóm lại, thuyết ngũ chủng chẳng qua chỉ là một cách tiếp tục che dấu khéo léo những đóng góp to lớn của người Bách Việt vào huyết thống và văn hóa Trung Quốc.
-Những đóng góp đó là gì? Như trình bày ở phần trên, người Bách Việt đã mang văn minh trồng trọt, làm đồ gốm và thuyền bè lên miền bắc, do đó góp phần rất đáng kể cho sự bành trướng dân số, lãnh thổ và văn minh của Hán tộc. Về kim loại, rất có thể người Bách Việt đã truyền kỹ thuật đúc sắt cho người Hán. Theo các nhà nghiên cứu trong ngành luyện kim và khảo cổ, kỹ thuật luyện sắt tại Trung Quốc bắt nguồn từ hai ngã độc lập nhau:
* từ nước Ngô (Bách Việt) vào đầu thế kỷ thứ năm hay cuối thế kỷ thứ sáu TTL; và
* từ dân du mục Scythian (miền nam nước Nga) qua ngã Tây Bá Lợi Á vào khoảng thế kỷ thứ tám TTL.
Các nhà kim loại học đề xuất rằng sự phát triển dụng cụ và võ khí bằng sắt tại Trung Quốc bắt nguồn từ miền nam là chính yếu. [32] Từ nước Ngô, đồ sắt truyền qua nước Sở trong vòng một thế kỷ và các nước chư hầu nhà Châu một thế kỷ sau đó. Lí do tại sao kỹ thuật sắt của người du mục miền tây bắc không nhanh chóng truyền xuống đồng bằng Trung thổ vẫn còn là một nghi vấn của lịch sử.

Về tiếng nói, có nhiều bằng cớ cho thấy, cùng với sự tiếp thu nền văn minh nông nghiệp lúa nước của người Bách Việt, người Hán đã thu nhập tiếng Việt vào trong vốn từ vựng của mình. Ngày nay, chúng ta vẫn có thể tìm thấy trong Hán ngữ những từ gốc Việt như Nữ Oa, Thần Nông, Ðế Nghiêu, Ðế Thuấn, v.v… Ngay cả trong Kinh Thi, một bộ sách quan trọng vào bậc nhất đối với người Hán, cũng có khá nhiều thí dụ ảnh hưởng cách nói của người Việt. [33] Theo một số tác giả, trước thời Hoàng Đế, người Bách Việt đã sử dụng chữ Hỏa tự và chữ Khoa đẩu. Khi phát minh ra chữ vuông, người Hán đã dùng chữ vuông ký tự những chữ Việt đó, rồi đương nhiên coi là tiếng Hán, chữ Hán. [34] Về văn chương, người Hán đã tiếp thu Sở Từ, một lối thơ gieo vần của dân Sở, mà người Hán cho là loại thi ca cổ đại hay nhất. [35] Về tư tưởng thì không những Đạo Lão có nguồn gốc Bách Việt, mà một vài nhà nghiên cứu, thí dụ như triết gia Kim Định, còn đòi lại Kinh Thi, Kinh Dịch, Kinh Thư, v.v…, cho người Việt.
Nói tóm lại,
Trung Quốc có thể xem là một thí dụ của Hiệp Chủng Quốc lâu đời nhất. Là một nền văn minh đa văn hóa, Trung Quốc có khả năng tiếp thu và phát triển các kỹ thuật đến từ mọi hướng. Người Hán rất tài tình trong việc thu lượm, vay mượn, cưỡng chiếm, chế biến và tổng hợp các thành tựu văn hóa và kỹ thuật của các sắc dân chung quanh, đặc biệt là dân Bách Việt. Vì là kẻ thống trị, người Hán có động cơ coi thường, che dấu, xóa bỏ văn minh của các giống dân bị trị với mục đích đề cao vai trò khai hóa của mình. Dùng chữ viết thống nhất như là một võ khí vô địch, người Hán đã rất thành công trong việc thi hành các chính sách này. Trong suốt một ngàn năm Bắc thuộc, người Hoa Hán đã cố tình tìm cách tiêu hủy văn minh Lạc Việt, nghiêm trọng nhất là trong thời kỳ nhà Hán và nhà Minh.
Vì thế, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy cổ sử Trung Quốc viết về người Bách Việt với giọng điệu miệt thị và đầy rẫy những sai lạc. Những sai lầm này một phần do lối suy nghĩ tự tôn Hoa Hán bá chủ, một phần do thiếu hiểu biết tìm tòi, và một phần lớn là cố tình bóp méo sự thật. Tác phẩm xuyên tạc người Bách Việt nhất có lẽ là Hậu Hán thư (HHT) của Phạm Việp. Dựa trên HHT, sử gia Trần Trọng Kim viết rằng người Việt học nghề trồng lúa từ Thái thú Nhâm Diên thời Đông Hán (đầu thế kỷ thứ nhất), trong khi thật ra người Việt đã sản xuất và tiêu thụ gạo nhiều ngàn năm trước. [36] HHT cũng cho rằng nguời Bách Việt chưa biết mặc quần áo, trong khi một khai quật khảo cổ tại Bắc Giang cho thấy cách đây 3400 năm, người Việt đã biết dệt vải làm áo. [37]
Cho đến tương đối gần đây, người Hán vẫn tự mãn, vẫn cho mình là trung tâm văn hóa loài người. Khi tìm ra xương người đứng thẳng (homo erectus) hóa thạch tại Châu Khải Điếm, Bắc Kinh, trong thập niên 1920, các nhà nhân chủng học Trung Quốc vội vàng lập thuyết cho rằng người Hán là thủy tổ các sắc dân vùng ĐNÁ. Niềm tin chủ quan sai lầm đó vẫn còn tồn tại trong một số nhà khoa học Trung Quốc cho đến đầu thập niên 1990. [38] Năm 1986, các nhà khảo cổ tìm thấy di tích đồ đồng kỹ thuật cao Sanxingdui của nền văn minh Shu (Thục) tại Tứ Xuyên. Trung Quốc đã gán cho đồ đồng này niên đại 1200 năm TTL mà nhiều nhà khảo cổ Tây Phương cho rằng trẻ hơn tuổi thật rất nhiều. Lý do là vì người Trung Quốc rất hãnh diện về đồ đồng nhà Thương, mà đồ đồng nhà Thương mới chỉ có độ 1300 năm TTL. [39] Mặt khác, một số học giả Trung Quốc lại tranh chấp chủ quyền trống đồng với các học giả Việt Nam, mặc dù ai cũng công nhận trống đồng là sản phẩm văn hóa và kỹ thuật độc đáo của người Bách Việt. [40]
Sau một ngàn năm Bắc thuộc, hấp thụ không biết bao nhiêu tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật dán nhãn hiệu Hoa Hán (mặc dù một phần rất lớn có nguồn gốc Bách Việt), người Việt khó tránh khỏi ít nhiều mặc cảm tự ti dân tộc đối với người Hán. Mặc cảm tự ti đó dẫn đến tinh thần vọng ngoại, cái gì của Tàu cũng lâu đời, cũng thật, cũng tốt, còn cái gì của ta cũng bắt chước, cũng giả, cũng xấu. Trong giới học giả Việt Nam, điều đó nhiều khi lại còn thê thảm hơn. Niềm tin giáo điều vào các cổ sử, kinh điển của người Hán, cùng sự thiếu hiểu biết về văn minh Bách Việt đã góp phần không nhỏ vào thái độ tự ti vọng ngoại của một số nhà trí thức khoa bảng gốc Việt. Người viết đã từng nghe một nhà văn hóa hải ngoại tuyên bố rằng: “cái gì hay của mình, đều là chớp của Tàu cả”.
Rất may là các công trình nghiên cứu khách quan, nghiêm túc của các nhà khoa học quốc tế thời nay đã giúp soi sáng phần nào các đóng góp to lớn của bộ tộc Bách Việt. Ngày trước, các bậc học giả Việt Nam tiền bối có thể viết sai vì thiếu dữ kiện, không có điều kiện nghiên cứu hay ỷ lại vào các tài liệu chủ quan, thiếu chính xác của Trung Quốc. Nhưng với các phát kiến ngày nay, các lỗi lầm đó không thể tha thứ được. Đã đến lúc chúng ta phải mạnh dạn sửa đổi các sách vở cũ cho phù hợp với bước tiến của khoa học, và phải biết đến và tuyên dương các thành quả của các bậc tiền nhân Bách Việt.
Chúng ta cần làm chuyện đó vì nhiều lý do. Thứ nhất, tìm hiểu về nguồn gốc mình để biết người biết ta, để giữ vững bản sắc mình trong cơn lốc toàn cầu hóa và cách mạng kỹ thuật thông tin, và để góp phần vào kho tàng văn minh nhân loại. Thứ nhì, có hiểu biết những thành tựu huy hoàng của tổ tiên, người Việt Nam mới nhận thức sự kém cỏi của dân mình, nước mình trong nhiều thế kỷ qua. May ra nhờ đó sẽ nảy sinh ra tinh thần đoàn kết Đại Việt, xóa bỏ mọi tỵ hiềm để cùng nhau xây dựng một nước Việt Nam tân tiến, giàu có và công bằng trong tinh thần Cổ Việt. Thứ ba, tìm hiểu về nguốn gốc mình để thấy sự gần gũi, gắn bó của các sắc dân láng giềng ĐNÁ, một hình thức Bách Việt nới rộng. Cụ thể hơn nữa là sự hoàn toàn từ bỏ thành kiến khinh rẻ các anh em Bách Việt ít nguời như người Mường, Mán, Chàm, Thượng, v.v…

5/. ASEAN và Trung Quốc:
Trong TVTVĐM, học giả PVC đã nhấn mạnh đến ý chí và nỗ lực kết khối của các quốc gia ĐNÁ. Ý chí liên kết đó bắt đầu bằng ý thức Maphilindo, do các nhà cách mạng người Phi Luật Tân như José Rizal và Apolinario Mabini chủ xướng vào cuối thế kỷ 19, khi gần như tất cả khu vực ĐNÁ còn đắm chìm trong vòng đô hộ phương Tây. Ý thức này nhắm tới việc thành hình một tổ hợp dân Malay gồm có Nam Dương, Mã Lai và Phi Luật Tân. Vào cuối thập niên 1930, Manuel Quézon, tổng thống nước Phi tự trị dưới quyền bảo hộ của Mỹ, đã đề cập đến một liên bang, bao gồm không những khu vực hải đảo mà còn tất cả các quốc gia ĐNÁ lục địa. Có thể nói đây là đề xuất kết khối đầu tiên của các quốc gia có nguồn gốc Bách Việt.
Trong khu vực ĐNÁ lục địa, tiếng gọi liên kết được cất lên trước hết tại Thái Lan năm 1939 và sau đó tại Việt Nam năm 1943. [41] Tuy hình thức liên kết Malphilindo giới hạn và Malphilindo nới rộng đã không thành, một phần lớn vì ảnh hưởng của các cường lực bên ngoài, ý thức Malphilindo đã, đang và sẽ làm bó đuốc lý tưởng soi đường cho nỗ lực kết hợp của hậu duệ người Bách Việt. Trong phần cuối chương 17 của TVTVĐM, học giả PVC có nhắc tới ASEAN, được thành lập qua tuyên ngôn Băng Cốc năm 1967. [42] Vào lúc đầu, các quốc gia thành viên ASEAN vẫn còn giữ khuynh hướng vọng ngoại. Vì thế, học giả PVC đã kết thúc TVTVĐM với niềm hy vọng xen lẫn sự hoài nghi về tương lai liên kết của các nước ĐNÁ.
May thay, niềm hy vọng của học giả PVC đã tiến gần đến hiện thực. Sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, vương quốc Brunei (1984), Việt Nam (1995), Lào (1997), Miến Điện (1997) và Căm Bốt (1999) dần dần chính thức tham gia ASEAN. Như vậy, một thế kỷ sau khi chủ nghĩa Malphilindo ra đời, các quốc gia ĐNÁ đã thành công trong việt thành lập một hình thức kết khối ổn định trong tinh thần tương quan bình đẳng. Tất cả các quốc gia thành viên của ASEAN đều có nguồn gốc Bách Việt. Ngay cả Singapore, tuy dân chúng chính thức nói tiếng phổ thông, nhưng phần lớn dân cư người Hoa đều có nguồn gốc Bách Việt như Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, v.v…
*
Như TVTVĐM đã trình bày, dân chúng các nước ĐNÁ, dù muốn dù không, đã đi đến vùng định mệnh, không thể còn đi đâu nữa cả. Cách giải quyết duy nhất là tìm một phương cách hữu hiệu để giúp nhau cùng phát triển và đề kháng áp lực bắc phương truyền kiếp.

Ngày nay, với khoảng 500 triệu dân, 4,5 triệu kilo mét vuông và tổng sản lượng gộp chung $737 tỷ Mỹ kim, [43] ASEAN là một tổ chức ổn định và tương đối có thực lực để giao tiếp và đối kháng, nếu cần, với Trung Quốc. Ngay từ đầu, Trung Quốc đã xem ASEAN như một địch thủ đáng kể. Bắc Kinh đã mở hẳn một chiến dịch phỉ báng ASEAN và nhất là Nam Dương. [44] Nhưng, như học giả PVC đã phân tích, bất kỳ sự kết khối nào của ĐNÁ cũng chỉ có hại hơn là có lợi cho Hoa lục, cho nên sự chống đối của Bắc Kinh cũng là chuyện dễ hiểu.

Con rồng Trung Quốc, qua hơn một thế kỷ ngủ quên, đang tỉnh giấc và vươn lên với tốc độ rất nhanh. Các diễn tiến chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự, biên giới, v.v…, gần đây cho thấy áp lực phương bắc là một vấn đề nghiêm trọng cho toàn cõi ĐNÁ trong nhiều thế hệ sắp tới. Tuy đây chỉ là sự tái diễn của lịch sử, nhưng các áp lực tương lai sẽ phức tạp và tế nhị hơn các cuộc xâm lăng thuần túy quân sự ngày trước.

Một vài khía cạnh của vấn đề này sẽ được triển khai dưới đây.
-Trước hết, chúng ta cần xác nhận là các nhà lãnh đạo Trung Quốc trong thâm tâm vẫn giữ chủ trương bành trướng lãnh thổ lãnh hải, đặc biệt đối với Việt Nam mà họ cho là một phần của Trung Quốc, tạm mất vào tay người Pháp trong khi Trung Quốc bị suy yếu. Về thực tế, ngoài việc dùng võ lực lấn chiếm một số đất đai dọc theo biên giới miền bắc của nước ta, Trung Quốc còn chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và một phần quần đảo Trường Sa. Gần đây, chính quyền Trung Quốc còn ép chính quyền Việt Nam ký kết một hiệp định biên giới rất bất lợi cho Việt Nam, nhất là về phương diện lãnh hải.
Đối với biển Đông, Trung Quốc đã chính thức tự xác nhận chủ quyền của họ xuống tận quần đảo Nam Dương từ năm 1992. [45] Nhưng chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc không chỉ giới hạn vào biển Đông. Việc Trung Quốc tìm cách liên kết với các quốc gia Tây Hồi (Pakistan), Tích Lan và Miến Điện trong vài năm qua làm nhiều nhà quan sát e ngại rằng Trung Quốc đang tìm cách khống chế vùng Ấn Độ Dương. [46] Như vậy ý đồ của Trung Quốc trong đoản kỳ là thách thức vai trò lãnh đạo thế giới của siêu cường Hoa Kỳ, mà bước đầu là tạo ảnh hưởng toàn diện trong khu vực ĐNÁ, nhất là tại biển Đông. Bằng cớ đơn giản nhất là, theo tính toán của Mỹ, Trung Quốc đã bỏ 9% tổng sản lượng vào chi phí quân sự trong năm 1993. [47] Nếu quả thật như thế, Việt Nam lại một lần nữa đóng vai trò lá chắn cho toàn vùng ĐNÁ đối kháng sự bành trướng của Trung Quốc.
Chính sách tiêu biểu nhất của một đế quốc bất cứ thời nào là chia để trị. Tuy có chung nguồn gốc Bách Việt, các quốc gia thành viên ASEAN khác biệt khá nhiều về văn hóa, tôn giáo và mức độ phát triển, do đó dễ bị chính sách chia để trị của Trung Quốc ảnh hưởng. Lấy thí dụ, trong vấn đề tranh chấp biển Đông, Trung Quốc đã đồng ý giải quyết vấn đề trong tinh thần công pháp quốc tế chứ không còn khăng khăng đòi nói chuyện riêng với từng nước tranh chấp như trước. Tuy nhiên, trong thực tế, Trung Quốc vẫn dùng mối lợi khai thác kinh tế để nhử từng quốc gia ASEAN như Việt Nam hay Phi Luật Tân ký kết các hiệp ước song phương với họ.
Chính sách thứ hai của các tân đế quốc là mập mờ bất nhất. Có khi Trung Quốc dùng chiêu bài hợp tác kinh tế để gây ảnh hưởng với ASEAN (mặc dù thật ra nền kinh tế Trung Quốc có tính cách cạnh tranh hơn là bổ sung cho nền kinh tế của khối ASEAN). Một thí dụ mới nhất là tuyên ngôn Bắc Kinh về hợp tác phát triển tin học giữa Trung Quốc và ASEAN ký ngày 12/5/2005. [48] Nhưng có khi Trung Quốc lại đưa ra những quyết định đơn phương rất nguy hại cho các quốc gia ĐNÁ lục địa, chẳng hạn như chương trình xây đập trên thượng nguồn sông Cửu Long. Tuy bị các nhà môi trường học quốc tế chỉ trích rất nhiều, Trung Quốc đã từ chối thương thuyết với các quốc gia chịu ảnh hưởng xấu như Miến Điện, Thái Lan, Lào, Căm Bốt và Việt Nam. Khi cần thiết, Trung Quốc cũng rất sẵn sàng dùng các biện pháp quân sự để đàn áp các quốc gia ĐNÁ, như lịch sử gần đây chứng minh.
Để hợp tác hay đối phó hữu hiệu với Trung Quốc, các quốc gia thành viên khối ASEAN phải thật sự đoàn kết nội bộ trên căn bản “tình anh em Bách Việt ruột thịt”, tức là phải tránh đối thoại và ký kết các hiệp ước song phương với Trung Quốc càng nhiều càng tốt. Đài Loan, với nguồn gốc Mân Việt, [49] có thể là một thành viên tương lai của khối ASEAN nới rộng. Về mặt đối ngoại, ASEAN phải khéo léo dùng các thế lực của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nga và Ấn Độ để dung hòa ảnh hưởng Trung Quốc. Hoa Kỳ, Nhật Bản và Nga là những thế lực cũ và có nhiều quyền lợi trực tiếp hay gián tiếp trong khu vực ĐNÁ. Ấn Độ với dân số cao và mức độ tăng trưởng kinh tế hiện nay sẽ là một thế lực mới, có khả năng ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc tại Ấn Độ Dương. Phần lớn những điểm này đều đã hàm chứa trong viễn kiến TVTVĐM của học giả PVC hơn 30 năm trước.
* Đinh Việt Nhân / 2005 talawas*

GHI CHÚ:
[1]Học giả Phạm Việt Châu tên thật là Phạm Đức Lợi, một sĩ quan cấp tá trong Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Gần đây, các con của học giả đã sưu tầm các bài này và in thành sách (xem Phạm Việt Châu, Trăm Việt trên vùng định mệnh, North Falls House, Minneapolis, 1997).
[2]Xem cước chú 1, Phần Dẫn Nhập (trang 18) và Chương 18 (trang 290).
[3]Xem cước chú 1, trang 39.
[4]Cung Đình Thanh, Tìm về nguồn gốc văn minh Việt Nam dưới ánh sáng mới của khoa học, Nhà xuất bản Tư Tưởng, Sydney, 2003.
[5]Xích Quỷ là một từ do người Hán đặt ra và có nghĩa là giống rợ da mầu đỏ. Xem Nguyên Nguyên, “Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương (3): Nước Xích Quỷ”, http://www.aihuucongchanh.com/ahccahcc.html
[6]Các danh từ Hồ Việt, U Việt, Mân Việt, Đông Việt, Nam Việt, Âu Việt, Lạc Việt lấy ra từ cước chú 1, trang 25. Danh từ Điền Việt lấy từ cước chú 5. Từ Chiêm Việt do người viết đặt ra dựa trên các dẫn chứng lịch sử về sự liên hệ giữa người Chàm và người đảo Hải Nam (xem Bình Nguyên Lộc, Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Lá Bối, Sài Gòn, 1971, NXB Xuân Thu táI bản tại Hoa Kỳ).
[7]Cao Thế Dung, “Mấy nét về cuội nguồn văn minh văn hóa Việt Nam”, Tư Tưởng số 4 năm 1999, trang 7-12.
[8]Nguyên Nguyên, “Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương (2): Nước Sở cái nôi của dân Việt”, http://www.aihuucongchanh.com/ahccahcc.html
[9]Xem cước chú 1, trang 26.
[10]Xem cước chú 4, trang 218(9.
[11]Xem Nguyên Nguyên, “Truyền thuyết Âu Cơ và dư âm Bách Việt trong tiếng Việt(1): Ảnh hưởng chủng Thái” http://www.aihuucongchanh.com/ahccahcc.html Tác giả Nguyên Nguyên lấy tài liệu từ Di Cosmo,N., Ancient China and its Enemies – The Rise of Nomadic Power in East Asian History, Cambridge University Press, 2004.
[12]Xem cước chú 1, trang 32–3.
[13]Xem cước chú 1, trang 42.
[14]Theo nhà văn Bình Nguyên Lộc thì người Chàm và người đảo Hải Nam ngày xưa có liên hệ chặt chẽ, xem cước chú 6.
[15]Xem cước chú 1, trang 27–33.
[16]Xem cước chú 8.
[17]Xem Taylor, K., The Birth of Vietnam, University of California Press, 1983.
[18]Xem Lịch sử Việt Nam, tập 1, NXB Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp, Hà Nội, 1985, trang 164. Trong cước chú 5, tác giả Nguyên Nguyên cũng hàm ý cho rằng văn hiến và lập quốc đi đôi với nhau. Ông đề nghị chúng ta “rút lại còn đúng 3000 năm văn hiến” và “chịu mất 1000 năm văn hiến, một thứ văn hiến ‘ảo’, trống không”. Theo người viết, đây là một đề nghị cực đoan vì văn hiến và lập quốc là hai vấn đề khác biệt nhau.
[19]Tiêu biểu nhất là các tác giả Needham, Solheim II, Gorman, Jettmar, Higham, Turner, Hanihara, Nichols, Ballinger, Chu, Oppenheimer, v.v… Các công trình này đã được tóm lược trong cước chú 4 và Trần Nam Bình, “Vài nhận xét về nguồn gốc người Việt”, Tư Tưởng số 22, trang 18-22.
[20]Oppenheimer, S., Eden in the East: The Drowned Continent of Southeast Asia, Phoenix, London, 1999.
[21]Xem cước chú 14.
[22]Xem Nguyễn Quang Trọng, “Về nguồn gốc dân tộc Việt Nam và Địa đàng phương Đông của Oppenheimer”, Hợp Lưu số 64, tháng tư 2002, trang 24(52.
[23]Giả thuyết này xuất hiện lần đầu trên Tập san Tư Tưởng trong những năm 1999 và 2000. Loạt bài này sau đó được in thành sách (xem cước chú 4).
[24]Hiểu theo nghĩa chuyên môn khảo cổ, văn hóa Hòa Bình bao gồm một vùng đất rộng lớn trong ĐNÁ.
[25]Xem Brown, P., “The first modern East Asians?: Another look at Upper Cave 101, Liujang and Minatogawa” 1 trong Omoto, K. (chủ biên), Interdisciplinary Perspectives on the Origins of the Japanese, International Research Center for Japanese Studies, Kyoto, 1999, trang 105(30.
[26]Xem Renfrew, C, “Language families as evidence of human dispersals” trong Brenner, S. và K. Hanihara (chủ biên), The Origin and Past of Modern Humans as Viewed from DNA, World Scientific, Singapore, 1995, trang 285(306.
[27]Xem cước chú 22. Theo tác giả Cung Đình Thanh thì những chứng cớ trồng lúa đầu tiên tại Bắc Việt hoặc chưa tìm thấy, hoặc đã đắm chìm dưới nước trong lần biển tiến cuối cùng.
[28]Xem cước chú 4 và “History of Thailand & Southeast Asia”, http://www.guidetothailand.com/thailand-history/beginning.htm
[29]Xem cước chú 4, trang 182(3.
[30]Theo một số học giả, huyền thoại Hoàng Đế đánh ‘giặc’ Xuy Vưu mô tả trận chiến quy mô đầu tiên giữa Hán tộc và Việt tộc.
[31]Ngay cả nhà Nguyên Mông Cổ cũng xếp người Hoa Nam (Nam Nhân) vào hạng chót của đẳng cấp xã hội, dưới cả đĩ điếm và ăn mày (xem Nguyễn Duy Chính, “Chiến lược mặt biển của Trung Quốc và vấn đề biển Đông”, http://www.vietkiem.com, trang 6, 2002).
[32]Wagner, D.B., “The earliest use of iron in China”, trong Young, S.M. và nhiều tác giả (chủ biên), Metals in Antiquity, Archaeopress, Oxford, 1999, trang 1(9.
[33]HYPERLINK “http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=4246&rb=06″Hà Văn Thùy, “Việt mượn Hán hay Hán mượn Việt?”, talawas, 9/4/2005.
[34]Xem cước chú 31.
[35]Xem cước chú 4, trang 417.
[36]Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Quyển 1, Trung Tâm Học Liệu, Sài Gòn, 1971, trang 38.
[37]Xem cước chú 4, trang 510.
[38]Thay vì thuyết Một nguồn, một số nhà khoa học Trung Quốc ủng hộ thuyết Liên tục Đa địa phương trong việc giải thích sự xuất hiện người hiện đại tại châu Á. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu di truyền học đã bác bỏ thuyết Liên tục Đa địa phương.
[39]Nguyễn Quang Trọng, “Về văn minh cổ và nguồn gốc dân tộc Việt Nam – Trả lời nhóm Tư Tưởng”, Hợp Lưu số 66, tháng 8/9, 2002, trang 46(59.
[40]Các học giả Trung Quốc cho rằng trống đồng bắt nguồn từ Vân Nam hay Quảng Tây, trong khi các học giả Việt Nam chủ trương trống đồng phát xuất từ Bắc Việt. Xem cước chú 4, chương 7.
[41]Xem cước chú 1, trang .269.
[42]Ban đầu gồm có Nam Dương, Phi Luật Tân, Mã Lai, Thái Lan và Singapore.
[43]Xem Association of South East Asia Nations, http://www.aseansec.org/64.htm
[44]Xem cước chú 1, trang 286.
[45]Xem Vũ Quang Việt, “Khu vực Thái Bình Dương đầy biến động trong thế kỷ 21: Cạnh tranh, hợp tác hay đối đầu?”, http://www.hoithao.viet-studies.org/1998_VQViet.pdf, trang 16, 1998.
[46]Xem cước chú 31, trang 45.
[47]Xem cước chú 45, trang 16.
[48]Xem ASEAN and China Establish ICT Cooperative Partnership for Common Development, http://www.aseansec.org/home.htm
[49]Xem Nguyễn Đức Hiệp, “Đài Loan và cuội nguồn Bách Việt”, Tư Tưởng số 22 năm 2003, trang 24–5.
Sưu khảo : Phamthientho Hànhtrìnhtựdo-April 2012
**********************************************
(Trần Sơn sưu tầm FB – 2019)

Posted in Uncategorized | Leave a comment

Khai bút đầu năm LỢN 2019 – Tán hươu tán Vượn …


*1/-NHẬP: “Con LỢN ủn ỉn mua hành cho tôi…” (Ca Dao)
Năm qua 2018, con chó đã “Khóc đứng khóc ngồi – Bà ơi đi chợ mua tôi đồng riềng” …Nên trong – ngoài, nhiều người đều hay …dưới chế độ dùng “CHÓ VÀNG – công an trị” dân nghèo VN đã cực khổ thiếu thốn ra sao; cộng thêm áp lực bóc lột của Đảng đàn anh Tàu + (!)
Hình ảnh cho thấy các lãnh đạo CSvn béo tốt thế nào (!) : Vậy Kỷ HỢI /2019 ai “cõng” chú LỢN ra lò mổ ? Chú chệt trong minh họa ? Dĩ nhiên .

*2/-Xin thưa :
LUẬN và XÉT thêm về các yếu tố Tam tài (Thiên- Địa -Nhân tức Cơ hội – Địa bàn và con Người), chúng ta thấy còn bàn tay Người Dân Việt tham gia và quyết định giữa Sống và Chết (hay nô lệ cho giặc Phương Bắc )
Ở đây xin được hạn chế qua hiểu biết thô thiển về TỬ VI mà người viết gọi là “tán hươu tán vượn”.

A)THĂNG: Năm con heo mà bàn về con vượn : Vượn đây là con Khỉ / THÂN – một trong Tứ Sinh (Dần – THÂN – Tỵ -Hợi). Thân đây cũng là Cái Đầu của bộ máy Lợn ỷ /Kỷ (mình)Hợi tức chỉ biết mình “Thà mất Nước còn hơn là mất Đảng” (! )..
-a/Tuổi GIÁP THÂN – Mệnh Thủy tại Địa bàn Kim…gặp Triệt và Tuần Không tại Ngọ (hỏa) Mùi (thổ hay mộc) Lạch trung thủy …Nước ít (NƯỚC TRONG LACH)- nhưng được SINH vì kim bị triệt nên sinh thủy .
-b/Đồng thời các Tam Hợp (Thiên bàn) Hỏa hay Mộc bị Tuần Không – nên không cản trở. (y đang hiện 75t, coi như là thọ} .
-c/Và Khi THỦY hay KIM gặp các Năm vận hạn có Tam Hợp như THÂN- Tý – Thìn hay TỴ/Kim – Dậu – Sửu: hoặc …cùng với Đại vận đóng tại Tý (Thủy) của vòng Tràng SINH ( Thanh long & Đế Vượng : khoảng 42 đến 52t)…Hay gặp đồng nghiệp, đồng chí , thượng cấp : yếu tố Đảng và Nhân – cuộc đời của tuổi KHỈ này …”lên như diều gặp gió” khi gặp họ Tập/Tàu + cùng “nhất thể hóa” vì Mệnh của Tập cũng là Thủy (Trường Lưu Thủy) .

B)GIÁNG: Trên đây là những thời điểm thăng (sinh – vượng) và khi xuống của các tam hợp đều kết thúc là Nhập MỘ rồi Tuyệt . Cùng vòng Tràng Sinh của tuổi THÂN hiện trong Đại vận TỬ (dẩn đến mộ – tuyệt ..)
*-a)Từ 2016- Bính Thân Lưu Tuần Không đóng tại Thìn – Tỵ phá thế tam hợp Thủy triệt hạ thế Thiên cơ và Đia lợi của tuổi Giáp Thân.
-Năm Bính Thân/2016 và Đinh Dậu/2017 thuộc Sơn Hạ Hỏa kỵ khắc Lạch Trung Thủy của tuổi Thân/ TBT/csvn nên ông Tổng vội bám và làm tôi đòi cho TCB/TBT.CS Tàu với mệnh Trường lưu thủy.
-Kế đến Mậu Tuất/2018 và Kỷ Hợi /2019 thuộc Bình Địa Mộc lại gây hao tổn rất nhiều cho Thủy của Giáp Thân đẩy Đảngcsvn bán thêm đất đai, sông ngòi, vũng cảng (nhượng quyền khai thác lâu năm – thậm chí đến 70-90 năm cho đồng chí Tàu dưới danh nghĩa doanh nhân đầu tư…)
– Sao Lưu TRIỆT KHÔNG đóng vào cung THÂN trong năm Kỹ Hợi/2019 tức tính KIM và THỦY bị cạn kiệt – mệnh sống của tuổi Giáp Thân bị đe dọa .
-Tương lai xa hơn chút -năm 2020 -đảng CSVN – chi nhánh Phước Kiến là Phân bộ của Đảng CS Tàu thọ 90 tuổi .Theo đồn đãi của một số đảng viên cao cấp, năm này là hạn chót để VN xin làm một tỉnh thành trực thuộc Trung quốc .
*-b)Kẻ đứng đầu một tập hợp, đảng phái, quốc gia …như là linh hồn và vận mạng của tập thể đó !
-Về tướng số : Các con khỉ đều mắt to, thao láo …Nhưng kẻ này thường “ti hí mắt lươn” và rất ít khi ta thấy được tròng và con ngươi của hắn. Tương tự như mắt rắn độc, khi mổ ta không đoán được mổ vào đâu ! Ai nói rằng lú lẫn thì xin nghĩ lại !
-Về bút pháp – Tâm khí không đĩnh đạc và quang minh: khi chữ viết chữ thường lại viết hoa ( chữ R …chữ G ; đi xuống rồi lại đi lên cao..) kết thúc bằng gạch chéo (X). Chữ ký lại có dấu chấm – biểu hiệu của người tính khí đa nghi – kiêu kỳ trong địa vị cao trọng.
Đây là bút ký của một người bị chấm dứt cuộc đời bất ngờ với khổ đau – không lối thoát . Và cái bộ sậu hắn “lãnh đạo” cũng sẽ bị chấm dứt như vậy .

*3/-KẾT – Như Sấm ký Trạng Trình lưu hậu thế ” Cửu cửu càn khôn dĩ định…” “Thân Dậu niên lai kiến Thái Bình”:
-Năm Bính Thân 2016 (số 9). Đinh Dậu 2017…VN mất dấn tài nguyên, biển đảo cho Tàu + bằng đường lối công an trị đàn áp, bóc lột dân lành…theo đúng tiêu chí của Đảng csvn và Tàu Cộng qua khẩu hiệu “để đời” của các TBT (đã qua đời) và của TBT/Nhất thể hóa VN trực thuộc Thiên triều Tàu +. (Thà mất Nước hơn là mất Đảng !)
-Năm Mậu Tuất 2018 (số 9)- năm nay Kỷ Hợi 2019 (số 9) Biển Đông (tên gọi Thái Bình dương) đã và đang trở thành vấn nạn lớn cho VN Phát triển và Hòa Bình Thế giới.

-Năm Canh Tý 2020 – đảng CSVN thuộc Phân bộ Phúc Kiến/ Tàu – là con đẻ của đảng CS Trung quốc – được tròn 90 năm tuổi. Vẫn số 9 (!) thời điểm có thể trở thành “một tỉnh trực thuộc nước Tàu mà lãnh đạo csvn mong mỏi !

Cho đến hiện tại – đầu năm Kỷ Hợi 2019: Việt Nam vẫn đã và đang tiếp tục là con bài Thí Chốt của Đảng CS Tàu để đối đầu với Thế Giới và các quốc gia trong vùng Biển Đông về Chính Trị – đặc biệt trong lãnh vực Kinh Tế và Quân sự.

*

VIỆT NAM chúng ta ơi !
Người Dân Việt đang tham gia và phải quyết định giữa Sống và Chết (hoặt nhận làm nô lệ cho giặc Tàu Phương Bắc ). Nghe chăng ….

Trần Sơn 04/01/2019

Posted in Uncategorized | 4 Comments

Mậu Tuất – không CHÓ (?) Nhưng năm Kỷ HỢI …đảng CSvn trở thành…


9812_569130149798199_879507672_n

Đảng CSVN dùng chính sách công an / tục danh chó vàng để cai trị Dân chúng.
Và năm Mậu Tuất đang trở thành LỢN ỉ cho năm KỶ Hợi 2019
ỉ lại vào thiên triều Tàu mà đảng sợ ..gọi là “nước lạ” hình (minh họa) trên!

Vậy có thơ sau:
“Nước Việt từ nay lại thuộc Tàu
Bắc kinh chẳng tốn cuộc binh đao
Hai tay lão lú đà dâng hiến
Vọng mãi nhục này đến ngàn sau” -(Nguyễn Phan FB 23/10/18)

*

Mời Tham khảo:

*Đường vinh quang xây xác quân thù

*Lịch sử đã chọn lựa (?)

*Nếu tôi là ông Trọng…(Nguyễn Quang Duy)

https://vietbao.com/a286893/tinh-huong-nao-day-dua-tong-bi-thu-thanh-chu-tich-nguyen-phu-trong-

Trần Sơn 25/10/2018-

Posted in Uncategorized | 1 Comment